Thursday, December 6, 2007

Tâm thư của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn


Lễ thánh Phanxicô Xaviê, 03.12.2007

Kính gửi : Anh em linh mục,

Anh chị em tu sĩ và giáo dân thuộc giáo phận thành phố Hồ Chí Minh.

1. Từ một hai năm nay, tôi được nghe nhiều phản ánh tốt đẹp về Trung Tâm Mục Vụ của giáo phận chúng ta, số 6 bis Tôn Đức Thắng, quận I, thành phố Hồ Chí Minh. Nhờ có Trung Tâm Mục Vụ, nhiều lớp học và khoá học được mở ra, đáp ứng nhu cầu học hỏi của anh chị em giáo dân, nhằm đào sâu đời sống đức tin và cộng tác với các linh mục cách tích cực hơn trong các sinh hoạt mục vụ tại các giáo xứ cũng như trong giáo phận. Cũng nhờ có Trung Tâm Mục Vụ, chúng ta có thể tổ chức những lễ hội của giáo phận, quy tụ nhiều ngàn người một lúc.

2. Được như thế là nhờ giáo phận đã lấy lại được cơ sở vật chất mà trước đây Bộ Tài Chính đã mượn để làm trường Tài Chính - Kế Toán. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân Chúa ban cho giáo phận. Đồng thời chúng ta không quên cảm ơn Chính quyền thành phố Hồ Chí Minh đã tích cực can thiệp để Bộ Tài Chính hoàn trả lại cơ sở mà Bộ đã mượn.

3. Bên cạnh đó vẫn còn một nỗi băn khoăn mà qua lá thư này, tôi muốn chia sẻ với anh chị em. Anh chị em biết rằng toàn bộ cơ sở nhà và đất toạ lạc tại số 6 và 6bis Tôn Đức Thắng, quận I, rộng 40.000m2, là tài sản của giáo phận chúng ta (bằng khoán điền-thổ số 290 Sàigòn - Đakao xác định rằng khu nhà đất này do Hội Đồng Quản Trị Giáo Phận Công Giáo đứng bộ). Trước năm 1975, toàn bộ nhà và đất này được dùng làm Đại chủng viện và Tiểu chủng viện của giáo phận. Nhưng do giáo phận lúc bấy giờ còn cần sự hỗ trợ quý báu của một số linh mục người Pháp thuộc Hội thừa sai Paris (MEP), nên giáo phận đã bố trí một phần của khu Tiểu chủng viện (4.000m2 góc đường Nguyễn Du) để các vị linh mục người Pháp này ở và làm việc. Đến năm 1976, khi các linh mục người Pháp, theo chính sách chung, không được phép ở lại Việt Nam nữa, Chính quyền đã tiếp quản toàn bộ cơ sở 4.000m2 này mà không có sự bàn bạc và trao đổi trước với Toà Tổng Giám Mục. Có lẽ Chính quyền đã hiểu lầm rằng đây là tài sản của các linh mục nước ngoài, trong khi đó là tài sản của giáo phận chúng ta. Vị tiền nhiệm đáng kính của tôi là Đức Cố Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình đã từng khiếu nại với Chính quyền về vấn đề này nhưng không nhận được câu trả lời nào.

4. Trong suốt thời gian từ năm 1976 đến nay, Nhà Nước đã giao cơ sở nhà đất này cho Viện Quy hoạch và Thiết kế thuộc Bộ Xây Dựng để làm văn phòng, sau đó lại biến thành xưởng cưa, cuối cùng làm thành nhà ở cho cán bộ công nhân viên, gọi là khu nhà tập thể 11 Nguyễn Du. Do đó hiện nay có hơn 50 hộ gia đình đang sống tại đây.

5. Năm 2004, qua cha Tổng đại diện của giáo phận, tôi đã nhắc lại với Chính quyền Thành phố lời đề nghị của giáo phận mong muốn được hoàn trả lại khu nhà đất 4.000m2 nói trên. Tuy nhiên trong ba năm qua, tôi không nhận được bất cứ câu trả lời nào. Cách đây hai tuần, Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh gửi cho tôi một văn thư, trong đó xác định rằng việc Toà Tổng Giám Mục đòi lại khu nhà đất 11 Nguyễn Du là “không có cơ sở xem xét giải quyết”. Ngay sau đó, tôi cũng được báo tin rằng Công ty Quản lý nhà quận I cho tiến hành đo vẽ xác định hiện trạng và lập hồ sơ kỹ thuật bán nhà cho các hộ gia đình sinh sống tại đây.

6. Nhận được những văn thư và thông tin này, bản thân tôi hết sức ngỡ ngàng và băn khoăn, và chắc anh chị em cũng thế. Vì thế, sau khi cầu nguyện và trao đổi với các vị hữu trách, tôi quyết định sẽ gửi văn bản khiếu nại lên Chính quyền Thành phố cũng như Trung ương để trao đổi lại về vấn đề này. Tôi cũng rất thông cảm với hoàn cảnh khó khăn của các hộ gia đình đang sống tại cơ sở 11 Nguyễn Du. Vì thế tôi ước mong sẽ có dịp được gặp gỡ với các gia đình trên để cùng bàn bạc và trao đổi, nhằm tìm ra giải pháp tốt đẹp nhất cho cả hai bên.

7. Thưa anh chị em,Tôi viết thư này để chia sẻ với anh chị em nỗi băn khoăn của tôi, đồng thời xin anh chị em cầu nguyện cho. Việc xây dựng giáo phận không chỉ là trách nhiệm của riêng tôi nhưng còn là trách nhiệm của tất cả cộng đồng Dân Chúa trong giáo phận. Vì thế tôi tha thiết xin anh chị em thêm lời cầu nguyện cho giáo phận để chúng ta có thể tìm ra giải pháp tốt đẹp nhất. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta phải là những người xây dựng hoà bình và gieo rắc bình an như lời Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi mà anh chị em và tôi hằng yêu mến : “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin Chúa dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.. . Ôi Thần Linh thánh ái, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí : ơn an bình.”Đó cũng là cách thế tốt nhất để chúng ta chuẩn bị tâm hồn mừng Chúa Giáng Sinh. Nguyện xin ơn bình an của Chúa Hài Nhi đổ đầy tâm hồn mỗi người và mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn trong giáo phận thân yêu của chúng ta.
+ Gioan B. Phạm Minh Mẫn
Hồng Y Tổng Giám Mục
+ĐHY Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn

Saturday, December 1, 2007

Linh mục An Tôn Trần Văn Kiệm...nhà văn hoá, bạn vong niên của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm

Nhớ ơn thầy cô, đó là đạo lí phổ biến lâu đời theo tinh thần tôn sư trọng đạo. Nếu thầy cô của chúng ta còn là một vị có những đóng góp xuất sắc cho xã hội, cho đất nước thì lại càng là niềm hãnh diện và là tấm gương sáng cho các môn sinh.


LM Trần Văn Kiệm

Trên thực tế, trong tâm khảm của bất cứ ai đã từng cắp sách tới trường đều lưu giữ hình ảnh và những tâm tình kính trọng, biết ơn cách đặc biệt đối với một số thầy cô của mình. Anh em đồng môn chúng tôi đã cùng nhau học tập dưới mái trường nhỏ bé thuở xưa ở miệt Phú Nhuận cũng thường nhắc nhở nhau về một trong số những vị thầy như thế. Khi không có mặt thầy, môn sinh chúng tôi thường gọi thầy là thầy Kiệm. Khi có mặt thầy, chúng tôi gọi thầy là cha, bởi vì thầy là một linh mục Công Giáo. Tên đầy đủ của thầy là An-tôn Trần Văn Kiệm. Năm nay thầy đã 87 tuổi hạc, tức là thuộc bậc ‘đại phúc’, chỉ 3 năm nữa thầy sẽ thành tiên (thất thập cổ lai hi, bát thập như đại phúc, cửu thập như nhân tiên).


Thầy Kiệm sinh năm 1920 tại làng Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.Thiếu thời, học chữ quốc ngữ ở trường xứ đạo và học chữ Hán ở nhà do thân phụ dậy. Thân phụ thầy Kiệm là học trò ông nghè Nguyễn Tư Giản (1823-1890) (1). Hết tiểu học, thầy Kiệm được tuyển chọn vào Tiểu chủng viện. Thầy luôn chứng tỏ là một học sinh xuất sắc về đủ mọi môn: Toán, Lí, Hóa, Văn, cổ ngữ, ngoại ngữ và cả Âm nhạc.Năm 1940-41, đậu Tú tài Pháp tại Hà Nội. Năm 1945-46, tốt nghiệp Thần học tại trường Thần học Thượng Kiệm, Phát Diệm, rồi lãnh chức linh mục. Năm 1947, thầy được cử đứng ra thành lập trường Trần Lục là trường trung học đầu tiên và duy nhất tại huyện Kim Sơn lúc bấy giờ. Từ 1950 tới 1955, nhờ một linh mục người Bỉ là ‘Cố’ Jacques Houssa giới thiệu, thầy Kiệm nhận được học bổng du học Hoa Kì của Tổng giám mục New York là Đức hồng y Francis Spellman. Đức hồng y gửi thầy Kiệm về làm phó xứ thứ ba của giáo xứ Blessed Sacrament ở New Rochelle để tiện đi học.Vốn sẵn thông minh lại chăm chỉ học tập, ngay năm 1951 thầy Kiệm đã lấy được Cử nhân Hóa học (BS) tại trường Iona.Sau đó chuyển sang học Vật lí tại trường Fordham, được thụ huấn trực tiếp với Dr. Victor F. Hess là vị giáo sư đoạt giải Nobel về công trình khám phá ra tia vũ trụ (cosmic rays). Thầy Kiệm lấy Cao học Vật lí (MS) tại đây năm 1953. Vì sở thích riêng, thầy lại chuyển sang New York University để học về Quantum Physics. Trong thời gian du học tại Hoa Kì, thầy Kiệm có duyên may trở thành bạn vong niên với một nhân vật lịch sử, đó là cụ Ngô Đình Diệm, sau này cụ sẽ trở thành Thủ tướng và Tổng thống nước Việt Nam Cộng Hòa (sẽ trở lại việc này). Chính vì mối thâm giao với cụ Ngô, cho nên khi vừa nghe tin cụ được quốc trưởng Bảo Đại mời về chấp chính lần thứ hai vào giữa năm 1954, thầy Kiệm cảm thấy hết sức nôn nao. Thầy quyết định bỏ dở việc học đề hồi hương vì đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ. Đức hồng y F. Spellman rất qúy 2 ‘con cưng’ bảo lãnh của mình là thầy Kiệm và Lm. Nguyễn Đức Qúy cho nên Đức hồng y đã cho tổ chức bữa tiệc tiễn chân thầy Kiệm. Khách mời có Đại sứ Trần Văn Chương và Lm. Nguyễn Đức Qúy (sau này, khi lấy xong tiến sĩ Sinh học (PhD), Tiến sĩ Nguyễn Đức Qúy hồi hương phục vụ tại Viện Pasteur Sài Gòn. Cho tới gần đây, ông vẫn còn là nhân viên kì cựu trong Hội Chống Ung thư tại New Jersey).Vừa về tới Việt Nam, thầy Kiệm nhận giảng dậy tại Đại học Khoa học Sài Gòn niên khóa 1955-56. Từ 1956 tới 1973, thầy làm giáo sư Tiểu chủng viện Phát Diệm, Phú Nhuận. Trong khoảng thời gian này, thầy Kiệm đồng sáng lập và kiêm nhiệm chức hiệu trưởng trường Trung học Bác Ái ở thị xã Kiến Hòa (Bến Tre). Thầy cũng là tuyên úy cho các tín hữu Hoa Kì tùng sự ở Việt Nam, nhóm họp mỗi Chủ nhật tại nhà thờ Mai Khôi, đường Tú Xương, Sài Gòn.Sau những năm dài làm công tác giáo dục, thầy Kiệm nhận đi phụ trách một họ đạo vùng Bà Rịa. Nhưng rồi biến cố tháng 4 năm 1975 đã đưa đẩy hàng trăm ngàn người Việt trôi dạt khắp nơi. Trước cảnh lạ nước lạ cái của đa số đồng bào khi mới đặt chân tới Hoa Kì, thầy Kiệm ra tay tích cực giúp đỡ đồng hương tị nạn suốt từ năm 1975 tới 1985. Khi tiến trình nhập cư đã ổn định, thầy Kiệm đi trông coi một cộng đoàn giáo dân gốc Việt Nam tại Seadrift thuộc vùng bờ biển Đông Nam tiểu bang Texas mãi cho tới nay, vì tuổi già sức yếu, thầy mới chịu về nghỉ hưu tại tiểu bang Georgia. Cuộc đời phục vụ đạo, phục vụ văn hóa giáo dục của thầy Kiệm dài tới 60 năm, tính từ ngày thầy lãnh chức linh mục cho đến nay (2007). Và thầy đã phục vụ xuất sắc bởi vì thầy vừa có tài vừa có tấm lòng, vừa chăm chỉ miệt mài lại vừa sẵn sàng từ chối danh vọng của cải trần gian. Chính Thầy đã kể lại thầy có 2 cơ hội ‘tiến thân’. Cơ hội thứ nhất: ngay khi cụ Diệm chưa trở về chấp chính, ông Ngô Đình Nhu đã gửi thư sang Hoa Kì kêu gọi thầy về giúp chính phủ tương lai. Cơ hội thứ hai đem tới cho thầy tiền bạc và những mời gọi khác là hồi đó cuộc đại chiến thứ hai mới chấm dứt không lâu, các nước Âu châu đang gấp rút tái thiết xứ sở, họ cần rất nhiều sinh viên tốt nghiệp bất luận là ngành nghề nào. Vừa lúc ấy thầy Kiệm tốt nghiệp tại Hoa kì, biết tiếng Đức, lại có tên là Van Kiem khiến người Đức tưởng đây là người Đức gốc Hòa Lan, cho nên Bộ Ngoại giao Đức đã gửi cho thầy một lá thư mời thầy về phục vụ cho quê hương (Vaterland)! Nhưng thầy Kiệm đã từ chối cả hai cơ hội kể trên: ‘Cố nhiên tôi phải từ chối cả hai lời mời từ người Đức cũng như từ ông Nhu. Với bào đệ ông Diệm, tôi xác định mình đã làm linh mục thì trọn đời sẽ một lòng giảng đạo không làm chính trị, nhưng cố nhiên tôi sẽ làm thần dân tận tụy phục vụ tổ quốc’ (Xin xem L.m. An-tôn Trần Văn Kiệm. Có phải Hoa thịnh đốn đã đưa ông Diệm về làm Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam? Dunglac.net). Sau đây chúng tôi đúc kết lại trong một số điểm để chứng minh thầy Kiệm đã thể hiện xuất sắc lời thầy xác định ‘một lòng giảng đạo’ và ‘làm thần dân tận tụy phục vụ tổ quốc’. Ngoài ra, thầy Kiệm còn lưu giữ mãi tình bạn hết sức cảm động đối với ông bạn vong niên của thầy là cố Tổng thống Ngô Đình Diệm mặc dù Tổng thống đã khuất bóng đến nay đã trên 40 chục năm.


MỘT LÒNG GIẢNG ĐẠO:


Bất cứ vị linh mục Công Giáo nào cũng phải khấn hứa long trọng 3 lời khấn trong ngày lãnh chức linh mục, trong đó có lời khấn hứa vâng lời vị giám mục bản quyền. Tùy nhu cầu, vị giám mục có thể giao cho các linh mục những nhiệm vụ khác nhau. Song, dù được giao phó nhiệm vụ nào, các linh mục cũng tin tưởng rằng mình đang làm việc phung sự Thiên Chúa, đang làm việc cho Giáo Hội.


LM Kiệm dâng lên ĐGH John Paul II sách Giúp đọc Nôm và Hán Việt, 1989
Mục vụ: Là linh mục, thầy Kiệm đã 5 lần được giao phó làm nhiệm vụ mục vụ ở các xứ đạo và một thời gian dài làm giáo sư Tiểu chủng viện: Vừa thụ phong linh mục năm 1947, thầy được cử về phụ trách giáo xứ Hướng Đạo, Giáo phận Phát Diệm (1947). Trong những năm du học tại Hoa Kì 1950-55, thầy Kiệm làm phó xứ Blessed Sacrament tại New Rochelle, Tổng giáo phận New York. Năm 1973-1975, trông coi một họ đạo gần thị xã Bà Rịa. 1975-1985, phụ trách giúp đồng hương tị nạn. Từ 1985 thầy quản nhiệm cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại Seadrif, Texas cho tới ngày về nghỉ hưu. Ngoài ra thầy còn làm giáo sư Tiểu chủng viện Phát Diệm, Phú Nhuận một thời gian dài từ 1955 tới 1967.Hết Lòng vì Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô: Tại Hoa Kì, ngoài việc chu toàn nhiệm vụ thông thường của một linh mục, thầy Kiệm vẫn thường xuyên viết bài cho các tờ Thời Điểm Công Giáo (Garden Grove), Thao Thức (New Orleans), Chính Nghĩa (San Jose). Nhưng đặc biệt thầy còn là một trong số không nhiều linh mục Việt Nam say mê nghiên cứu và phiên dịch Thánh Kinh, nhất là 4 sách Tân Ước. Vốn có khả năng đặc biệt về Hán, Nôm và một số sinh ngữ cũng như cổ ngữ Tây phương, thầy Kiệm đã miệt mài phiên dịch và chú giải Thánh Kinh. Năm 1993, đã hoàn thành bộ Thánh Kinh Tân Ước, gồm phần phiên dịch và phần chú giải hết sức công phu (Thánh Kinh Tân Ước của LM Trần Văn Kiệm là Bộ Thánh Kinh đầu tiên tiếng Việt đã được LM Trần Công Nghị đưa vào mạng lưới điện toán toàn cầu ngay từ năm 1996, http://vietcatholic.net/kiem/ và cũng đã giúp ấn loát và phát hành vào năm 1993. Năm 1995, thầy cho ra đời cuốn Con Đường Cứu Chuộc, rồi cuốn Chuyện Các Tông Đồ. Xin đan cử cách phiên dịch Đoạn I Tin Mừng thánh Gioan của thầy Kiệm:"1 Từ thuở thái sơ đã có Đạo, Đạo đồng tại với Thiên Chúa, và Đạo chính là Thiên Chúa. 2 Ngài cùng với Thiên Chúa đồng tại từ thái sơ. 3 Do Ngài vạn vật được tạo thành, và không do Ngài thì không vật thụ tạo nào thành hình được. 4 Tại nơi Ngài phát ra sự sống, và sự sống ấy là ánh sáng của nhân loại, 5 thứ ánh sáng phát quang trong bóng tối, thứ ánh sáng bóng tối không thể áp đảo". Dùng cách dịch thuật đoạn Tin Mừng mang ý nghĩa quan trọng vào bậc nhất trên đây để làm thí dụ, người ta sẽ hiểu tại sao báo Thời Điểm Công Giáo đã nhận định về cuốn Phiên Dịch và Diễn Nghĩa Thánh Kinh của thầy Kiệm: ‘Có người nhận định rằng bản dịch này dùng nhiều chữ Hán, nhưng thiết tưởng đây là những chữ Hán chính xác để diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của nguyên ngữ dùng trong Thánh Kinh, một số từ ngữ hơi lạ tai (vì không được dùng trong các bản dịch trước đây) nhưng được dùng một cách hợp lí, nếu chúng ta chấp nhận, dùng dần sẽ quen’ (LM Trần Công Nghị, Thời Điểm Công Giáo. Lời Nói Đầu. Số 32. Tháng 4.1995).Mặc dù không đủ tư cách nhận xét về vấn đề phiên dịch Thánh Kinh, nhưng khi thử đọc lại cách phiên dịch đoạn trên đây do một vài dịch giả khác, chúng tôi có cảm tưởng cách dịch của thầy Kiệm vừa dễ hiểu vừa trang trọng hơn. Đặc biệt, chúng tôi tự nhiên cảm thấy rất thú vị bởi vì lần đầu tiên được đọc một bản dịch bằng chữ quốc ngữ dịch chữ Logos (The Word) là Đạo (hầu hết các dịch giả Viện Nam dịch là Lời; Tư Cao Thánh Kinh Học Hội (1968) dịch là Thánh Ngôn). Thầy Kiệm cho biết thầy dịch Logos là Đạo theo cách dịch của Hương Cảng Thánh Kinh Học Hội (1989) với ý là thánh sử Gioan hiểu Chúa Giêsu là Trí Óc Sáng Suốt của Thiên Chúa đã xuống thế làm người, làm Ánh Sáng soi cho muôn dân.Thiển nghĩ, dịch ‘Từ thuở thái sơ đã có Đạo’ xem ra rất gần với Thái cực đồ thuyết (tức lí thuyết phát sinh vũ trụ) của Kinh Dịch: ‘Thị cố Dịch hữu Thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái định cát hung, cát hung sinh đại nghiệp’ (Hệ Từ thượng).Và có lẽ nội dung chữ Đạo hết sức quan trọng này trong câu dịch ‘và Đạo chính là Thiên Chúa’ cũng tương tự nội dung của chữ Đạo trong lời phát biểu của các Giám mục Việt Nam nhân dịp mở ra Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu tại Vatican năm 1998: ‘Có hai đặc điểm chính của Triết học và Tôn giáo Á châu, đó là trước hết, người ta có một cái nhìn tổng hợp, hài hòa về mọi thực tại, kể cả Thực Tại Tối Hậu, mà người ta gọi là Trời, Thiên, Đại ngã, Brahman hay Đạo…. Đây là một cái nhìn hài hòa, kết hợp Âm Dương, nội ngoại, siêu việt - nội tại…’ (Định Hướng số 16. Trang 86). Như thế cho phép nhận xét thầy Kiệm muốn theo gương vị tiền bối kiệt xuất là Cụ Sáu Trần Lục của Phát Diệm quê hương thầy và thầy cũng có cùng một chí hướng với các vị linh mục giáo sư nổi tiếng khác như Gs. Bửu Dưỡng, Gs. Sảng Đình Nguyễn Văn Thích, Gs. Lê Văn Lý, Gs. Kim Định, Gs. Thanh Lãng, Gs. Hoành Sơn Hoàng Sĩ Qúy, Gs. Vũ Đình Trác, Gs. Thiện Cẩm, Gs. Vũ Kim Chính…trong việc tìm về với những giá trị của Việt tộc, của Á châu, nghiên cứu hoặc là đối chiếu tư tưởng Kitô giáo với những tư tưởng đặc thù của Á châu và phát huy, hội nhập làm cho đời sống tinh thần của chúng ta thêm sung mãn, hài hòa hơn.


TẬN TỤY PHỤC VỤ TỔ QUỐC:
Nói chung, bất cứ người công dân bình thường nào làm tròn nhiệm vụ ở vị trí của mình đã có thể gọi được là tận tụy phục vụ tổ quốc, huống chi người công dân đó ở vị trí của một giáo sư, một hiệu trưởng và một tu sĩ như thầy Kiệm thì những nỗ lực phục vụ tổ quốc còn hữu hiệu hơn, có ảnh hưởng sâu rộng hơn. Ngoài những cống hiến đáng kể ấy, thầy Kiệm còn phục vụ tổ quốc bằng công trình nghiên cứu chữ Nôm hiếm hoi và rất đáng qúy.Vì muốn giúp cho hậu sinh có cái chìa khoá mở vào kho tàng Hán Nôm còn nằm im lìm trong các thư viện Hà Nội, Vatican, Paris, Macao, London…thầy Kiệm biên soạn cuốn Giúp Đọc Nôm Và Hán Việt (Giúp Đọc NVHV). Sách Giúp Đọc NVHV phát hành vào các năm 1989, 1997 và 1999, mỗi lần có bổ cứu thêm; với các chữ Nôm, Nho tự viết bằng tay. Mãi tới năm 2002, thầy Kiệm mới liên lạc được với hội Vietnamese Nôm Preservation Foundation do Gs. John Balaban thuộc Đại học North Carolina điều khiển và hội này nhờ Gs. Ngô Thanh Nhàn thuộc Đại học New York để cùng với các nhóm chuyên viên chữ Nôm khác in lại cuốn sách của thầy Kiệm với cách viết các chữ Nôm, Nho bằng điện toán.Hiện nay cuốn Giúp Đọc NVHV đã được hiệu đính và tái bản tới lần thứ tư tại Việt Nam, do nhà xuất bản Đà Nẵng và Hội Bảo Tồn Di Sản Chữ Nôm tại Florida, Hoa Kì cùng thực hiện. Tiếp theo cuốn sách đầu nhằm chỉ ra những những phương thức đọc Nôm và Hán Việt, thầy Kiệm viết thêm cuốn Từ Điển Văn Học Việt.Sau đây là những nét chính trong nội dung công trình biên soạn của thầy Kiệm: Cuốn Giúp Đọc Nôm Và Hán Việt: Có 2 phần:

Phần I giúp tìm âm một từ Hán Việt hay một chữ Nôm chưa biết (trang 7 tới 254): Bằng cách kê ra những bộ gốc kèm theo số nét của bộ và số nét của phần chữ còn lại của mỗi chữ rồi bỏ các chữ có cùng số nét vào những ô, tương tự cách sắp xếp của các tự điển Trung Hoa. Nhưng sách của thầy Kiệm tiện lợi hơn cho người biết chữ quốc ngữ vì thầy xếp các ô chữ theo thứ tự ABC.

Phần II giúp tìm nghĩa những chữ Nôm và Hán Việt đã biết âm (trang 255 trở đi), kèm theo là các thí dụ.Ngoài ra cuốn Giúp Đọc NVHV còn cống hiến cho độc giả nhiều điều hữu ích khác như: Dậy cách thực tập viết sao cho ‘đúng cựa’ và thực tập cách tìm được âm của một chữ; cách đọc chữ Trung Hoa phanh âm tức là sau mỗi từ Hán Việt sẽ ghi cách đọc theo giọng Bắc Kinh và Đài Loan; cách phân biệt các dấu bổng trầm trong tiếng Việt và tiếng Trung Hoa. Một điều rất hữu ích khác nữa đó là sách giúp hiểu đúng nghĩa của những chữ đồng âm dị nghĩa. Thí dụ chữ kì có 32 nghĩa trong chữ Hán và có 4 nghĩa trong chữ Nôm. Chữ tư có 25 nghĩa trong chữ Hán và có 1 nghĩa trong chữ Nôm. Lấy một thí dụ cụ thể: Chữ ‘đồng’ trong ‘tơ đồng’ (Đoạn Trường Tân Thanh của cụ Nguyễn Du) viết với bộ mộc cho nên không thể hiểu là đồng kim loại, rau tần ô, con nít, ống rỗng ruột, con người, đồng ruộng, đồng bạc mà phải hiếu là cây ngô đồng (tơ đồng là dây lụa ở cây đàn làm bằng gỗ cây ngô đồng…).Cuốn Từ Điển Văn Học Việt gồm có phần chép lại những tài liệu Hán Nôm có giá trị với những giải thích điển cố và những từ ngữ thông dụng vào các thề lỉ 18, 19 tức là ‘thời đại chữ Nôm’. Lại có thêm phần giới thiệu các nhân vật lịch sử, nhất là của Việt Nam, các nhà văn Trung Hoa và Việt Nam sáng tác bằng quốc ngữ trong thế kỉ 20. Sau hết là phần trình bầy nếp sống và triết lí bình dân của người Việt Nam dưới hình thức các phương ngôn, ngạn ngữ.Với công trình biên soạn cuốn Giúp Đọc Nôm Và Hán Việt và cuốn Từ Điển Văn Học Việt độc đáo này, thầy Kiệm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn hóa thuộc loại thủ bản, mang lại ích lợi to lớn về học thuật. Sau những giờ bận rộn với việc mục vụ, một linh mục có quyền nghỉ ngơi để lấy lại sức khoẻ, riêng thầy Kiệm một mình rút vào văn phòng và âm thầm miệt mài nghiên cứu để soạn sách. Nếu không phải là một người vừa có tài vừa phát tâm tận tụy phục vụ tổ quốc như thầy Kiệm, sẽ không đủ sức để hoàn thành một tác phẩm hiếm qúy như thế.Hiện nay, mặc dù thầy Kiệm đã lên bậc đại lão, nhưng thầy vẫn còn đang dịch ra tiếng Anh những Kinh chuyện hiếm qúy của Việt tộc trong bộ Lĩnh Nam Chích Quái. Công trình này sẽ được Lm.Trần Cao Tường và một số họa sĩ thực hiện và phổ biến.

VỚI CỐ TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM, MỘT TÌNH BẠN ĐẦY CẢM ĐỘNG:

Ngày 01 tháng 11 năm 1963, cuộc đảo chính do một nhóm tướng lãnh quân đội VNCH cầm đầu nổ ra. Ngày hôm sau, họ giết chết Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Ngay sau đó bọn học sinh chúng tôi để ý thấy thầy Kiệm thay đổi rất nhiều. Dường như thầy đang trải qua một cơn chấn động lớn, vẻ mặt bơ phờ, xa vắng, chua cay. Bộ tóc của thầy vốn hơi quăn nay có vẻ biếng chải nên càng quăn thêm. Cúc cổ áo dài trắng của thầy thường không còn được cài kín, vẻ như bất cần đời! Ít lâu sau thầy mới chịu hé lộ một chút cho bọn học sinh chúng tôi biết rằng thầy lấy làm tiếc vì đã từng ủng hộ ứng cử viên tổng thống J. F. Kennedy mỗi khi có dịp tiếp xúc với các nhân viên Hoa Kì là tín hữu Công Giáo làm việc tại Sài Gòn. Thầy cho rằng Tổng thống Kennedy có trách nhiệm trong vụ lật đổ và thảm sát người bạn vong niên của thầy là Tổng thống Ngô Đình Diệm. Và năm tháng cứ trôi đi theo dòng lịch sử. Mãi mới gần đây trên Văn Nghệ Tiền Phong và trên Dunglac.net, độc giả khắp nơi mới được hiểu rõ ngọn ngành câu chuyện về tình bạn vong niên hết sức cảm động giữa thầy Kiệm và cố Tổng thống Ngô Đình Diệm qua bài viết của thầy nhan đề: Có Phải Hoa Thịnh Đốn Đã Đưa Ông Diệm Về Làm Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam ? Thầy Kiệm ví cụ Ngô như ‘một ngôi sao sáng, còn thầy chỉ là một hòn đá, ‘một cục thiên thạch’, nhưng hai vị có duyên gặp nhau trên xứ người, rồi trở thành đôi bạn tri kỉ vong niên.Cụ Ngô sinh năm 1901, thầy Kiệm sinh 1920, cách nhau gần hai con Giáp, hai vị có duyên gặp nhau vì những lí do may mắn ngẫu nhiên: Cả hai đều tới Hoa Kì kể như đồng thời, thầy Kiệm tới trước một chút (1950), cụ Ngô tới sau (1951). Thầy Kiệm được gửi đi du học còn cụ Ngô là một chính khách sáng giá tới Hoa Kì để nghiên cứu tại chỗ chính thể và chính trường Hoa Kì, đồng thời đi tìm kiếm nhân tài trong số các sinh viên Việt Nam đang du học tại đây. Thêm vào, cả hai cùng được sự bảo trợ qúy báu của Đức hồng y F. Spellman, Tổng giám mục New York và họ sống không xa nhau, cách khoảng 60 miles: thầy Kiệm ở nhà thờ Blessed Sacrament, New Rochelle (sát bờ biển Đông Bắc thành phố New York); cụ Ngô lưu trú trong tu viện Maryknoll, Lakewood (trung bộ New Jersey). Thời đó, có rất ít người Việt sống ở Hoa Kì, đa số họ là những sinh viên du học, cho nên họ có ‘nhu cầu’ tìm gặp nhau, nhất là trong những dịp lễ tết và dễ dàng trở nên bạn bè. Riêng cụ Ngô vốn là một người Công Giáo thuần thành sẽ không mất nhiều thời giờ để tìm hiểu và kết bạn với một linh mục tuổi trẻ tài cao.Sang năm 1951, thầy Kiệm nhận được điện tín từ Âu châu yêu cầu ra phi trường Idlewild để đón Giám mục Ngô Đình Thục (bạn đồng song của Đức hồng y F. Spellman) và bào đệ Ngô Đình Diệm. Thầy Kiệm cho đây là một vinh dự được nghênh đón 2 nhân vật, một đạo một đời, có tiếng tăm lẫy lừng thời ấy cho nên thầy vội vàng chuẩn bị xe và đóng bộ tươm tất nhất để ra phi trường. Bụng bảo dạ, thầy Kiệm tiên đoán 2 điều: một là Đức hồng y F. Spellman sẽ niềm nở tiếp đón Giám mục Ngô Đình Thục là bạn đồng song với Ngài hồi cả hai tòng học tại Roma; hai là vì cùng được Đức hồng y bảo trợ cho nên thầy Kiệm và cụ Ngô sẽ có nhiều dịp gặp gỡ và sống bên nhau. Hai tiên đoán của thầy Kiệm đều đúng.Thật vậy, trong hơn hai năm cụ Diệm sống tại Hoa Kì, thầy Kiệm đã có nhiều dịp gặp gỡ, sống chung, giúp đỡ và làm bạn tâm tình với cụ.Thầy Kiệm kể lại, mỗi lần cụ Diệm tới Manhattan tiếp chính khách tại khách sạn, cụ thường nhờ thầy đưa đón. Có khi thầy Kiệm móc tiền túi ra trả tiền khách sạn cho cụ vì biết cụ Diệm sống rất thanh bạch. Cụ Diệm còn nhờ thầy Kiệm giúp cho cả những việc nhỏ khác. Trong số những sinh viên bạn bè du học thời đó như các ông Huỳnh Văn Lang, Đỗ Vạng Lí, Bùi Công Văn, Bùi Kiến Thành, Nguyễn Thái, Nguyễn Ngọc Linh, Nguyễn Văn Thơ, bà Nguyệt Minh, Nguyễn Đình Hòa…(2) thì riêng ông Nguyễn Đình Hòa có thân phụ quen biết cụ Diệm, cho nên khi ông Hòa lập gia đình, cụ Diệm nhờ thầy Kiệm đưa đi mua quà tặng cho đôi tân hôn.Một lần, vì muốn cho cụ Diệm được chút thay đổi thoải mái, thầy Kiệm mời cụ tới ở chơi cuối tuần với thầy. Cụ Diệm nhận lời ngay. Song vì thầy Kiệm sống chung với các linh mục giáo xứ không tiện tiếp đón khách riêng, thầy đã ngỏ lời xin các nữ tu Ursuline giúp đỡ. Các nữ tu Ursuline là những vị giàu lòng nhân ái và có học lực rất cao, đang điều hành ngôi trường College of New Rochelle bề thế. Họ sẵn lòng dành cho vị khách qúy của thầy Kiệm một căn phòng rộng rãi, khang trang, mời khách ăn ở 2 ngày cuối tuần. Mỗi bữa ăn có một vị nữ tu, là giáo sư, ân cần phục thị cụ Diệm và thầy Kiệm. Khi thầy Kiệm hỏi cụ có ngủ ngon giấc không thì cụ Diệm thành thật nói: ‘Bầu khí rất thanh tĩnh, giường ngủ rất êm ái thơm tho, nhưng họ cần gì mà phải thay chăn đệm mỗi tối, và khăn lau trong buồng tắm một ngày ba lần’!Tình bạn giữa cụ Diệm và thầy Kiệm thân thiết đến nỗi hai vị có thể đem nói với nhau những ý nghĩ thầm kín và có cả những cú ‘sửa lưng’vui vui của một đàn anh đối với một đàn em. Trong giáo xứ, thầy Kiệm kết bạn với một tín hữu người Trung Hoa. Thầy giới thiệu người tín hữu này với cụ Diệm. Không lâu sau, người bạn Trung Hoa viết thiệp mời cụ Diệm và thầy Kiệm tới nhà dùng cơm. Thiệp mời khách tới nhà vào ‘đệ lục nhật’. Lúc đó vốn Hán học của thầy Kiệm còn giới hạn cho nên thầy thắc mắc tại sao người Công Giáo lại mời nhau dùng cơm vào ngày thứ sáu phải kiêng thịt. Cụ Diệm vui vẻ giải thích cho thầy rằng ‘đệ lục nhật’ của người Trung Hoa tức là ngày thứ bảy của ta. Có lần người ta hỏi quê quán của thầy Kiệm, thầy nói thầy là người làng Phát Diệm, thì cụ Diệm húc nhẹ cùi chỏ vào thầy rồi trả lời thay: ‘Cha Kiệm là người Phát Diễm đó’. Cụ nhắc cho thầy tục lệ kị húy của người Việt mình, đồng thời chỉ cho thầy biết tuy là viết một chữ Hán nhưng có thể đọc hai âm, vừa là Diệm vừa là Diễm.Mặc dù học hành vất vả, nhưng cuối tuần thầy Kiệm vẫn dành thời giờ để liên lạc với cụ Diệm. Vì biết cụ hết sức ưu tư trước tình hình chính trị bế tắc, cho nên để giúp cho cụ được thư giãn đôi chút, thầy Kiệm đã mách cho cụ một cái thú chơi nghệ thuật lịch lãm, đó là thú chụp hình. Bởi thầy Kiệm vốn say mê môn chụp ảnh nghệ thuật. Thầy có đủ loại máy ảnh, lại được tự do xử dụng phòng tối của trường học giáo xứ. Hơn nữa, tại Đại học Fordam, khi muốn phân tích thành phần các thể chất, thầy Kiệm được các giáo sư dạy cho phương pháp dùng điện thế rất cao để chụp quang phổ (spectrum). Khi cụ Diệm đồng ý, thầy Kiệm đưa cụ đi mua máy ảnh, sách dậy chụp và rửa hình. Chuyện này khiến cho thầy Kiệm sau này đã lấy làm ân hận. Vì thầy dẫn đưa cụ Diệm vào cái thú chụp hình và chơi ảnh nghệ thuật cho nên khi cụ bị lật đổ, bọn phản loạn đã lục soát văn phòng của cụ và phao tin cụ ‘chơi hình khỏa thân’. Kì thực cụ Diệm chỉ có những tờ báo Photography chụp phong cảnh và người mẫu chứ không phải là loại báo ‘Playboy’. Cũng vào giai đoạn này, khi có dịp thư thả tâm tình, thầy Kiệm nhiều lần hỏi thẳng cụ Diệm nhận xét gì về nhân vật Hồ Chí Minh. Thời còn là sinh viên Thần học tại Trường Lí Đoán Thượng Kiệm, Phát Diệm (tức trường Thần học Phát Diệm), thầy Kiệm đã từng sống chung với Luật sư Trần Văn Chương và ông Ngô Đình Nhu. Chính Đức giám mục Lê Hữu Từ đã tiếp nhận ông bà Luật sư Trần Văn Chương và ông bà Ngô Đình Nhu về ẩn náu tại Khu An Toàn Phát Diệm hồi 1945. Ngài gửi bà Chương và bà Nhu (con gái của ông bà Chương) tại tu viện Mến Thánh Giá Lưu Phương, còn hai ông Chương và Nhu thì phải ăn mặc như một thầy tu và sống chung với các sinh viên trường Thần học Thượng Kiệm. Lúc đó thầy Kiệm lấy làm lạ, sao cụ Diệm không về Phát Diệm cùng với ông Nhu, hay là ông Hồ Chí Minh vẫn muốn giữ cụ Diệm lại. Nay ở bên Hoa Kì, có dịp thuận tiện, thầy Kiệm lại đưa điều thắc mắc xưa ra để hỏi cụ Diệm. Thầy muốn biết ông Hồ và cụ Diệm đã đối xử với nhau thế nào và cụ Diệm nghĩ gì về ông Hồ. Nhưng thầy Kiệm chẳng được toại nguyện; thầy xác nhận không một lần nào ông Diệm bình luận với thầy hay bất cứ ai về ông Hồ.Đến giữa năm 1953, tình bạn giữa cụ Diệm và thầy Kiệm bước sang giai đoạn mới: Khoảng trung tuần tháng 6 năm 1953, cụ Diệm gọi điện thoại báo cho thầy Kiệm biết tin Quốc trưởng Bảo Đại mời cụ về nước chấp chính. Theo thầy Kiệm nhận xét thì trước khi nổ ra trận Điện Biên Phủ (13.3.1954), dường như quần chúng và ngay cả nhiều chính khách Hoa Kì biết rất ít về đất nước và con người Việt Nam. Thậm chí có người còn hỏi thẳng thầy Kiệm nước Việt Nam ở chỗ nào trên bản đồ thế giới và phụ nữ Việt Nam đã biết mặc quần áo chưa?! Thầy Kiệm đem mối ưu tư này của mình giãi bầy cùng cụ Diệm thì cụ trả lời: ‘Được Mĩ bật đèn xanh, không phản đối việc tôi quy cố hương là đủ. Chắc rằng về nước nhà rồi, tôi sẽ còn cần họ tiếp sức mới hãn ngữ được đường tiến của Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh và Hà Nội. Như vậy là bõ công tôi sống hơn hai năm ở Hoa Kì. Việc tôi trở về sẽ không do Hoa Thịnh Đốn quyết định, nhưng sẽ tùy thuộc công cuộc Hoàng đế Bảo Đại dàn xếp với Champs- Élysées có hạnh thông hay chăng’. Và để trấn an thầy Kiệm cụ Diệm nói tiếp: ‘Sang Âu châu, gặp nhà vua rồi, nhìn thấy tiền đồ sáng tỏ hơn, tôi sẽ từ bên đó đánh điện cho cha rõ, để cha thông báo cho các anh chị em bên này yên lòng’.Kế đó cụ Diệm rời tu viện Maryknoll, Lakewood, New Jersey để về nhà ông bà Bùi Công Văn phía Đông Bắc Central Park, Manhattan. Buổi tiễn chân cụ Diệm đi Âu châu có 5 người là ông bà Bùi Công Văn, Đỗ Vạng Lí, Bùi Kiến Thành và thầy Kiệm. Chính bà Bùi Công Văn phát hiện cụ Diệm không thắt cà vạt cho nên ông Bùi Kiến Thành (người thường biếu tiền cho cụ Diệm. Ông Thành là con cụ Bùi Kiến Tín) vội chạy đi mua cà vạt cho cụ Diệm (3).Ngay hôm sau, từ Paris, cụ Diệm gửi cho thầy Kiệm điện tín nói: ‘Tout va bien’. Thế nhưng cuộc điều đình với Pháp của Quốc trưởng Bảo Đại không đem lại kết quả, cho nên cụ Diệm đã gửi thư cho thầy Kiệm cho biết cụ bỏ Pháp để sang tạm trú tại tu viện Saint André, Bruges, nước Bỉ.Thầy Kiệm cố ý mô tả hoàn cảnh và diễn tiến buổi tiễn chân cụ Diệm rời Hoa Kì đi Âu châu đáp ứng lời kêu gọi lần thứ nhất của Quốc trưởng Bảo Đại để chứng minh cho hậu thế: cụ Diệm về chấp chính không phải là do Hoa Thịnh Đốn dàn dựng. (Điều này cũng được hồi kí của ông Bùi Diễm công minh xác nhận. Xin xem Chú thích số 4).Trận Điện Biên Phủ nổ ra ngày 13.3.1954 giữa quân Pháp và quân CSVN. (Quân Pháp thua trận ngày 26.6 1954). Ngày 16.6.1954, Thủ tướng Bửu Lộc và chính phủ từ chức. Quốc trưởng Bảo Đại ra sắc lệnh số 38/QT ủy cho cụ Diệm lập chính phủ mới với toàn quyền dân sự và quân sự (5).Chỉ trong một thời gian rất ngắn, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã ổn định được miền Nam. Ngày 23.10.1955, tổ chức trưng cầu dân ý phế bỏ Quốc trưởng Bảo Đại. Ngày 26.10.1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống nước Việt Nam Cộng Hòa.Đúng vào thời kì khai mở nền Cộng Hòa này, thầy Kiệm bỏ trường New York University để về nước.Đây là lúc chứng thực mối tình bạn thắm thiết giữa cụ Diệm và thầy Kiệm. Tục ngữ có câu: Giầu đổi bạn, sang đổi vợ. Cụ Diệm thì khác, nay đường đường là một vị nguyên thủ quốc gia, cụ vẫn không quên người bạn trẻ hồi còn bôn ba ở hải ngoại. Được tin thầy Kiệm đã về nước, cụ Diệm cho Bác sĩ Trần Kim Tuyến tới Tiểu chủng viện Phát Diệm, Phú Nhuận, mời thầy vào Dinh Độc Lập. Tổng thống chỉ thị đón thầy Kiệm vào cổng chính, mở cả 2 cánh cửa. Các gia nhân đứng đón chào ngoài cổng đều mặc quốc phục, họ đưa thầy lên lầu phía trái, nơi Tổng thống cũng bận quốc phục đang ngồi. Nghi lễ đón bạn của Tổng thống bề ngoài xem ra rất trang trọng theo cổ tục, nhưng câu chuyện hàn huyên riêng tư giữa hai vị vẫn hoàn toàn thân mật không chút xã giao, khách sáo. Thầy Kiệm đã dám hỏi Tổng thống những câu hỏi hết sức riêng tư và nhậy cảm. Chẳng hạn như thầy hỏi Tổng thống tại sao truất phế Quốc trưởng Bảo Đại, tại sao ‘giận’ Đức cha Lê Hữu Từ. Tổng thống trả lời: ‘Vì chính nhà vua muốn truất phế tôi sau khi tôi dẹp yên bọn theo Pháp phá hoại quốc gia và thành lập xong một chính phủ có đầy đủ sức hoạt động. Té ra nhà vua đã lợi dụng tôi như một con cờ thí nhận việc dọn đường phục bích mà thôi. Trước sau Hoàng thượng vẫn nuôi mộng một ngày sẽ trở lại Huế ngồi lên ngai cũ các vua Nguyễn. Tôi đã hứa khi được Hoàng đế mời về chấp chính thì mình sẽ vâng nghe các Thánh chỉ sáng suốt của Ngài. Nhưng Thánh chỉ đòi tôi rút lui vào lúc quốc sự còn ngổn ngang, thì nhất định là thiếu sáng suốt, làm sao tôi có thể phụng mệnh Thánh chỉ được’. Trả lời câu hỏi thứ hai của thầy Kiệm, Tổng thống nói: ‘Tôi đâu dám giận Đức Cha? Chỉ có Đức Cha giận tôi mà thôi. Khi tôi mời Ngài tránh nạn vào Nam, Ngài đã không chịu. Cha còn nhớ chăng? Cuối năm 1952, tôi có nhờ Cha biên thư cho Ngài mà căn dặn chấm dứt chương trình xây trường Louis Pasteur ở Hà Nội, để dùng tiền mua đất xây nhà ở Sài Gòn phòng biến. Ngài đã không nghe khiến cho địa phận Phát Diệm bây giờ lâm vào cảnh cơ cực ở vũng lầy Phú Nhuận. Tới giai đoạn Hiệp định Genève, tôi hết sức hô hào dân lành bỏ Bắc vào Nam, thì Ngài lại đòi tôi làm một việc mộng tưởng đầy máu xương, là giúp Ngài cố thủ tại Phát Diệm! Cha ơi! Tôi rất đau khổ vì mất một ông bạn cố tri, từng là ân nhân của tôi và cùng tôi xuất thân từ Quảng Trị!’ Thế rồi từ đó, trong suốt thời Đệ Nhất Cộng Hòa, thầy Kiệm đã rút lui vào hậu trường để ‘phục vụ Tổng thống Diệm với tư cách quan sát viên miễn phí’, bởi vì thầy ý thức rõ rệt những chuyện ‘đượm nặng mùi chính trị đảng phái, một linh mục như tôi cần tránh xa’. Mặc dù đã cố gắng thu mình vào hậu trường chính trị, nhưng với vai trò ‘quan sát viên’ tự nguyện cho Tổng thống, thầy vẫn có những dịp gặp gỡ Tổng thống hoặc là như một người bạn tâm tình hoặc là để tư vấn những chuyện có liên quan tới tôn giáo. Chẳng hạn như thầy Kiệm đã được Tổng thống mời tham dự cuộc họp vào ngày 15 tháng 8 năm 1963 cùng với một số chức sắc tôn giáo để bàn về chính sách của Hoa Kì và Vatican giữa lúc dầu sôi lửa bỏng. Nhưng thầy Kiệm, vốn chỉ là một nhà tu hành, không có phép mầu nào, không thể ‘hô phong hoán vũ’, đành bất lực nhìn người bạn thân thiết của mình tứ bề thọ địch rồi cuối cùng bị sát hại thảm thương.Ngô Tổng thống, người bạn vong niên của thầy Kiệm đã ra người thiên cổ cách nay 44 năm, nhưng thầy Kiệm vẫn ôm mãi trong lòng tình bạn thắm thiết chân thành. Thầy lấy làm đau lòng vì cho rằng Ngô Tổng thống là người thành tâm yêu nước yêu dân, vậy ‘mà bình sinh gặp rất nhiều hạng người thuộc hắc đạo đã không biết nhận xét chân tướng của ông, và công trình xây dựng của ông, lại còn vu khống cho ông đủ mọi thứ tội ác, sau cùng đã giết ông một cách dã man’, mặc dù Tổng thống đã chịu đầu hàng để tránh cho dân và quân đội khỏi lâm cảnh chém giết lẫn nhau.Nỗi đau của thầy Kiệm còn nhức nhối không nguôi vì thầy thấy tại hải ngoại cũng như trong nước, nhiều người cầm bút vẫn viết về Tổng thống một cách bất công. Thư viện khắp nơi chứa đầy những tài liệu hoàn toàn bất lợi cho Tổng thống. Tuy nhiên, bóng đêm không mãi mãi ngự trị. Trời cũng như người không mãi mãi phụ kẻ công chính. Tới nay, điểm lại, càng ngày càng có nhiều tác giả là những nhà chính trị, sử gia, nhà văn, nhà giáo, nhà báo, thẩm phán, luật sư, quân nhân....đã công khai nói lên sự thật, mạnh dạn làm chứng cho lẽ phải, rằng: Tổng thống Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc, công nhiều tội ít (6).Thế cho nên dù không hề có tham vọng viết lịch sử như các bậc thức giả kể trên, nhưng thầy Kiệm phải cầm bút như một thôi thúc của tình bạn chân thành đối với Ngô Tổng thống để viết bài Có Phải Hoa Thịnh Đốn Đã Đưa Ông Diệm Về Làm Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam? Mục đích làm sáng tỏ việc Cụ Ngô về nước chấp chánh không do người Mĩ dàn dựng. Chỉ sau khi cụ Ngô đã ổn định được miền Nam, người Mĩ mới lộ liễu nhúng tay vào, rồi tìm cách lèo lái… và cuối cùng chấp thuận kế hoạch tai hại ‘thay ngựa giữa đường’! Bài viết này như một dấu ấn cuối cùng về tình bạn thắm thiết đầy cảm động giữa thầy Kiệm và cố Tổng thống Ngô Đình Diệm.Thời gian như bóng câu vút qua song. Trong khi tìm tài liệu để viết về thầy Kiệm kính yêu, chúng tôi được xem một bức hình của thầy chụp gần đây, bất giác cảm thấy bùi ngùi, nhớ lại hình dáng thầy vào những năm 60 tinh anh hoạt bát, mà nay đã gần cửu thập. Rồi lại liên tưởng đến‘những người muôn năm cũ’! Ôi mái trường xưa, các thầy, và bạn bè mến yêu, ai còn ai mất.Sống trên cõi đời, mỗi người có một phận số khác nhau. Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng vậy, thầy Kiệm cũng vậy, ai ai cũng vậy. Khi xuôi tay nhắm mắt, tất cả những thứ người ta muốn chiếm hữu suốt cả cuộc đời đều phải bỏ lại, chỉ những gì tốt đẹp và hữu ích người ta đã cho đi, đã cống hiến thì sẽ còn lại mãi mãi mà thôi. Người đời sau sẽ nhớ tới Ngô Tổng thống như một nhà ái quốc chân chính, dám hi sinh mạng sống vì chính nghĩa. Lũ môn sinh chúng tôi và các nhà quan tâm tới nền học thuật nước nhà sẽ nhớ tới thầy Kiệm như là một tu sĩ ‘một lòng giảng Đạo’, như một nhà văn hóa, một công dân ‘tận tụy phục vụ tổ quốc’ bằng các nỗ lực phục vụ đạo đời, nhất là công trình biên soạn về chữ Nôm giá trị của thầy. Thầy Kiệm còn là mẫu mực về tình bạn trung thành, qúy trọng và giúp đỡ bạn lúc hàn vi, khiêm tốn lui vào bóng tối lúc bạn ở trên tuyệt đỉnh danh vọng, và không bao giờ bỏ rơi bạn khi bạn ngã ngựa, trái lại hết sức cố gắng làm cho hậu thế hiểu đúng về bạn hầu đem công chính trả lại cho bạn.

Trần Vinh

Mùa Lễ Tạ Ơn, tháng 11 năm 2007

(Trương Hải trích trong VietCatholic)




CHÚ THÍCH:

1. Ông nghè Nguyễn Tư Giản sinh tại Bắc Ninh năm 1823, đậu tiến sĩ năm 22 tuổi dưới triều Thiệu Trị (1841- 1847), làm quan triều Tự Đức (1848-1883). Năm 1882, tiến sĩ đã từ quan về Phát Diệm mở trường dậy học theo lời mời của bạn là Cụ Sáu Trần Lục và qua đời tại đây năm 1890.

2. Ông Huỳnh Văn Lang về nước năm 1954, làm Tổng giám đốc Viện hối đoái Quốc gia VN, giáo sư Đai học Sư phạm, sáng lập kiêm chủ nhiệm, chủ bút tạp chí Bách Khoa, sáng lập một số công ti, tác phẩm Nhân Chứng Một Chế Độ đoạt giải nhất Văn Bút VN 1972. Ông Đỗ Vạng Lí là viên chức cao cấp; theo cuốn hồi kí Công Và Tội của Nguyễn Trân, Xuân Thu xuất bản, trang 399 thì có lẽ chính là ông đã được Tổng thống Ngô Đình Diệm cử làm Đại sứ tại Hoa Thịnh Đốn thay thế ông Đại sứ Trần Văn Chương bị cất chức, nhưng HTĐ muốn cản trở nên không chấp nhận việc trình ủy nhiệm thư của ông (trong hồi kí viết là Đỗ Văn Lý, có lẽ là một sai sót?). Ông Bùi Công Văn là nhân viên của Đài Tiếng Nói Hoa Kì VOA (Voice Of America). Ông Búi Kiến Thành là chuyên gia tài chánh và kinh tế ở Hoa Kì, Pháp và Việt Nam. Ông Nguyễn Ngọc Linh, Giáo sư, Tổng giám đốc Việt Tấn Xã. Bác sĩ Nguyễn Văn Thơ, Tổng trưởng Giáo dục VNCH trong Nội các Nguyễn Cao Kỳ năm 1965. Bà Nguyệt Minh, Nghị sĩ VNCH, bà cũng là phu nhân của Bác sĩ Nguyễn Văn Thơ. Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Đình Hòa là Khoa trưởng Đại học Văn khoa Sài Gòn, giáo sư Đại học tại Hoa Kì. Sự hiểu biết của chúng tôi ở đây có hạn chế, xin các vị tiền bối lượng thứ cho.

3. Cách đây khoảng 20 năm, thầy Kiệm đi Virginia thăm ông bà Bùi Công Văn lần chót, thầy vẫn thấy trong album gia đình họ Bùi còn lưu giữ tấm hình cụ Ngô chụp sánh bước với thầy khi hai vị đi dạo gần nhà ông bà Bùi Công Văn. Tấm hình này do chính ông Bùi Công Văn xin cụ Ngô cho phép chụp.

4. Hồi cuối thánh 6.1954, tại Cannes, ông Bùi Diễm hỏi Quốc trưởng Bảo Đại: ‘Thưa Ngài, Ngài thấy ông Diệm thế nào?. Quốc trưởng Bảo Đại trả lời: ‘Ông Diệm cũng có thể là một giải pháp, nhưng theo anh, ông Diệm có được Mỹ ủng hộ không?’ Ông Bùi Diễm hỏi lại: ‘Thưa Ngài, sao Ngài không hỏi thẳng người Mỹ?’Cũng theo lời ông Bùi Diễm: ‘Vào cuối năm 1991, tôi có dịp trở lại thăm Cựu Hoàng Bảo Đại ở Ba lê. Trở lại chuyện cũ, tôi có hỏi ông về vấn đề này, thì ông trả lời rằng: vào thời kỳ đó, thái độ của Hoa Kỳ cũng không có gì rõ rệt cả, tuy nhiên ông quyết định chọn ông Diệm vì ông cho rằng trong số những nhân vật làm chính trị ở miền Nam lúc đó, ông Diệm rõ rệt là người ít dính líu đến người Pháp trong những năm về sau này, nên có thể dễ được người dân ủng hộ hơn những người khác….’ Khi nói về chuyện Quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế, Ông Bùi Diễm thuật lại như sau: ‘…Tuy nhiên, trong dịp gặp lại tôi năm 1991, ông (Bảo Đại) không hề tỏ lời oán trách ông Diệm’. (Bùi Diễm. Gọng Kìm Lịch Sử. Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, 2000. Trang 144 và Chú thích trang 146, 147).
5. Đoàn Thêm. Việc Từng Ngày. Xuân Thu xuất bản. Trang 148.6. Các tác giả người Việt như các vị: Lm.Vũ Đình Hoạt, Ls.Lâm Lễ Trinh (Bộ trưởng), Gs.Tôn Thất Thiện (Tổng trưởng), Cựu Tổng giám đốc Viện hối đoái Huỳnh Văn Lang, Chính khách Nhị Lang, Ls.Nguyễn Văn Chức (Nghị sĩ), Kí giả Nguyễn Trọng, Ls. Trương Tử Phòng Phạm Kim Vinh (Xin đọc Việt Nam Tự Do - Từ Ngô Đình Diệm Đến Lưu Vong, Tủ Sách Phạm Kim Vinh, 1987. Đặc biệt xin đọc trang 218 và trang bìa sau của cuốn sách. Trong cuốn VN Máu Lửa Quê Hương Tôi. Văn Nghệ xuất bản, trang 527 và 529, ông Đỗ Mậu lại đưa ra chứng cớ Ls. Phạm Kim Vinh nhận định trái ngược về cùng một vấn đề), Nhà văn Hoàng Hải Thủy, Gs.Cao Thế Dung, Đại tá Nguyễn Hữu Duệ (Tỉnh trưởng Thừa Thiên - Huế), Đại úy Đỗ Thọ (Đại úy 1963), Trung tá Nguyễn Văn Minh, Tiến sĩ Sử Hoàng Ngọc Thành, Gs.Thân Thị Nhân Đức, Gs. Nguyễn Lý Tưởng (Dân biểu), Thẩm phán Lữ Giang Nguyễn Cần, Thẩm phán Phan Thiết Nguyễn Kim Khánh, Nhà biên khảo Minh Võ, Ls.Phạm Phú Thứ, Kí giả Vĩnh Phúc, Tiến sĩ Sử Phạm Văn Lưu, Tiến sĩ Sử Nguyễn Ngọc Tấn, Tiến sĩ Sử Nguyễn Kỳ Phong…Trong nước, với những điều kiện cực kì khó khăn, vẫn có những tác giả viết về các nhân vật lịch sử cận đại khá công minh, chẳng hạn như tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang. Tên thật là Phan Kim Thịnh, nguyên Thư kí Tòa soạn Nguyệt san Quê Hương (Sài Gòn, 1960-1962), nguyên Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Tạp chí Văn Học (Sài Gòn 1962-1975). Tác phẩm như: Trần Lệ Xuân - Giấc Mộng Chính Trường, Một Phù Thủy Làm Quân Sư Cho Ngô Đình Diệm, Bảo Đại Vị Vua Triều Nguyễn Cuối Cùng, Nam Phương Hoàng Hậu Cuối Cùng Triều Nguyễn, Thiệu - Kỳ - Một Thời Hãnh Tiến - Một Thời Suy Vong…Các tác giả nước ngoài như: Tổng thống R.Nixon (No more Vietnams), Tướng M. Taylor (Swords and Plowshares), Kí giả Marguerite Higgins (Our Vietnam Nightmare), Tiến sĩ Ellen Hammer (A Death In November), Tiến sĩ Francis X.Winters (The Year of The Hare), Tiến sĩ Mark Moyar (Triumph Forsaken)…
Trần Vinh

Friday, November 30, 2007

Độc quyền khủng bố

Bài viết của tác giả Lê Bá Thạch
Trên các báo mạng ra ngày 27-11-2007, và cả báo truyền khẩu quán cóc vỉa hè, xe ôm, hớt tóc dạo... tất cả đều luân lưu những bản tin hiển thị mức độ leo thang và độc quyền khủng bố của công an xã hội đen CSVN.
Khủng Bố 1:
Phiên tòa phúc thẩm xử kín tại Hà Nội dành cho hai luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân biến thành một trận hành hung công khai. Bốn mươi xe bít bùng với hơn 150 công an, cả đồng phục lẫn thường phục, cùng với một số băng đảng xã hội đen vây kín tòa án. Các nút chận được thiết lập quanh vùng Hai Bà Trưng, Quán Sứ, Quang Trung...
Số 48 đường Lý Thường Kiệt thực sự trở thành một pháo đài kể từ 9 giờ sáng.
Thân nhân duy nhất của Ls Đài được vào bên trong là bà Vũ Minh Khánh. Cũng chỉ độc nhất một thân nhân của Ls Công Nhân được tham dự phiên tòa là bà Trần Thị Lệ, nhưng đã bị công an xô đẩy đến rách áo và suýt bị công an đấm ở ngay cửa tòa án. Hai cô Minh và Minh Tâm là chị em của Ls Công Nhân bị bắt lên xe bít bùng chở về Ô Cầu Giấy. 12 ký giả nước ngoài không được vào lấy tin ngay từ đầu, sau đó, chỉ được ngồi xem truyền hình cùng với một vài nhân viên ngoại giao nước ngoài ở một phòng cách ly. Tất cả đồng bào muốn theo dõi phiên tòa đều phải đứng cách xa tòa án hàng 300 thước. Mà vẫn bị công an hành hung.
Công an tịch thu các máy ảnh và điện thoại di động của bất kỳ ai có ý định công khai chụp ảnh bên ngoài tòa án. Công an giả dạng phóng viên để chụp hình đồng bào muốn theo dõi phiên tòa. Ls Lê Quốc Quân bị đấm đá và bị bóp cổ trước khi bị bắt lên xe bít bùng. Ông Vũ Cao Quận bị quản chế tại một quán cà phê. Các ông Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Phương Anh, Phạm Văn Trội, Lê Thanh Tùng và một số người khác không rõ tên bị bắt lên xe bít bùng. Ông Nguyễn Xuân Nghĩa bị công an đá vào hạ bộ....
Hệ thống công an ở đây chính thực là một loại công cụ mà chế độ này sử dụng để khủng bố đàn áp đồng bào của chính họ.
Khủng Bố 2:
Hãng thông tấn Reuters thông tin nhanh hơn các báo trong nước, có lẽ là nhờ không có chính ủy tổng biên tập, đã cho biết bản án phúc thẩm dành cho hai luật sư trẻ Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân không xê xích là bao so với bản án sơ thẩm trước đây. Dù có gia giảm bao nhiêu đi nữa thì đó vẫn là những bản án khủng bố viết sẵn bởi lãnh đạo đảng CSVN chứ không phải của các thẩm phán, với mục tiêu duy nhất là để khủng bố, bắt tù những ai nhiệt tình tin tưởng vào sự hành xử các quyền làm người cơ bản nhất, đặc biệt là quyền được nói.
Đây chính là phiên tòa tỏ rõ với toàn thể nhân loại rằng ở Việt Nam, vào đầu thế kỷ 21 này, cho dù VN đã là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc hay vừa mới ký Hiến Chương Nhân Quyền của khối ASAEN, thì dưới sự cai trị của CSVN, "nói" vẫn là một tội hình sự. Chứng nhân không chỉ là hai luật sư Đài và Công Nhân hôm nay. Chứng nhân cũng không chỉ là Linh mục Nguyễn Văn Lý bị công an bịt miệng giữa tòa, rồi bị chính phiên tòa đó kết án về tội "nói", hồi tháng Ba. Chứng nhân là 80 triệu nhân dân Việt Nam. Về chính sách "bế khẩu". Từ đó, nhân dân phải vừa đói vừa câm.
Hệ thống pháp lý ở đây cũng chính thực là một công cụ khác, trợ lực với công cụ công an để khủng bố đàn áp đồng bào của chính họ.
Câu hỏi bật ra cho những người đọc tin là: "Liệu rằng những bản án đó có giúp cho chế độ này tồn tại hay không?". Câu trả lời là của từng người và của mọi người. Riêng Ls Đài đã phát biểu trước tòa: "Tôi đòi hỏi dân chủ, tự do và đa đảng để người dân Việt Nam có thể hành xử quyền được tự do lựa chọn chính đảng nào lãnh đạo đất nước". Và Ls Công nhân cũng đã dõng dạc trước tòa: "Tôi tin tưởng vào quyền tự do ngôn luận. Ngay lúc này tôi lên tiếng cho quyền tự do ngôn luận vì đó là quyền tự do căn bản". Nghe như đâu đó vang vang vọng âm của câu hỏi vừa rồi được lặp lại: "Liệu rằng những bản án đó có giúp cho chế độ này tồn tại hay không?".
Câu hỏi kế tiếp của giới quan tâm là: "Liệu rằng chế độ có tồn tại lâu hơn bản án dành cho những con người dũng cảm đó không?". Bởi những anh hùng anh thư được công luận biết đến đó chỉ là biểu thị bề nổi của một đại khối dân tộc can trường vẫn luôn thiết tha với một cuộc sống cho ra người.
Khủng Bố 3:
Từ ngày 17-11-2007, công an CSVN đã bao vây một căn nhà trên đường Tôn Thất Hiệp, quận 11 Sài Gòn, bí mật bắt giam khẩn cấp 6 người về tội in tài liệu cổ võ cho ý niệm đấu tranh bất bạo động. Trong đó có hai anh em ông Nguyễn Thế Vũ, doanh nhân, và Nguyễn Trọng Khiêm, sinh viên, mang quốc tịch Việt Nam; bà Nguyễn Thị Thanh Vân, quốc tịch Pháp, đặc phái viên của chương trình Radio Chân Trời Mới rất được yêu thích ở đây; ông Somsak Khunmi, doanh nhân, quốc tịch Thái Lan; ông Trương Văn Ba, doanh nhân, quốc tịch Mỹ; và ông Nguyễn Quốc Quân, tiến sĩ toán học, quốc tịch Mỹ.
Trong bản Thông cáo Báo chí ra ngày 19-11-2007, tức là chỉ 2 ngày sau khi vụ việc xảy ra, đảng Việt Tân loan báo tin tức về việc công an CSVN bí mật giam giữ 3 thành viên của họ, gồm có bà Nguyễn Thị Thanh Vân và các ông Nguyễn Quốc Quân, Trương Văn Ba.
Ngày 20-11-2007, công an CSVN bí mật bắt giam thêm một người em của ông Nguyễn Thế Vũ là Nguyễn Viết Trung, một thanh niên ngoan đạo của giáo xứ Phan Thiết.
Cho đến ngày 22-11-2007, theo bản tin BBC, người phát ngôn của bộ Ngoại giao CSVN Lê Dũng thừa nhận có bắt giam 3 người quốc tịch nước ngoài là bà Nguyễn Thị Thanh Vân, ông Trương Văn Ba (Leon) và ông Somsak Khunmi. Họ vẫn không đề cập gì đến trường hợp ông Nguyễn Quốc Quân cùng ba anh em ông Nguyễn Thế Vũ, Nguyễn Việt Trung và Nguyễn Trọng Khiêm.
Hôm sau, ngày 23-11-2007, tức là 6 ngày sau trận bố ráp,công an CSVN bí mật phóng thích sinh viên Nguyễn Trọng Khiêm, bởi ông đã bị bắt giam chỉ vì là em trai và là người cư ngụ cùng hộ với ông Nguyễn Thế Vũ. Nhưng ngược lại, họ dàn quân ra quản chế tại gia ông cụ thân sinh của ông Khiêm ở Phan Thiết, và quản chế cả hiền nội của ông Vũ ở Sài Gòn. Công an tung tin với hàng xóm của ông Vũ những điều xằng bậy để cô lập gia đình ông. Vẫn không một thông báo nào về các ông Nguyễn Quốc Quân, Nguyễn Thế Vũ và Nguyễn Việt Trung.
Theo các công ước quốc tế mà nhà nước VN cam kết tôn trọng, thì một trong những nghĩa vụ mà nhà nước phải làm ngay tức khắc là thông báo tới chính phủ liên hệ mỗi khi câu lưu thẩm vấn một công dân của họ, bất kỳ vì lý do gì. Trong lần này, sau năm ngày giam giữ những công dân nước ngoài cùng với các bạn của họ ở trong nước, nhà nước VN chỉ thông báo gián tiếp bằng hình thức họp báo, nghĩa là nói khơi khơi và chỉ thừa nhận là có bắt người, nhưng không liệt kê đầy đủ, và cũng không báo là giam giữ những người bị bắt ở đâu. Nhưng lại là một cách trực tiếp thông báo với thế giới rằng công an CSVN có độc quyền tùy tiện bắt bất cứ ai, bất cứ lúc nào, chừng nào thấy thích thả thì thả, không thì cứ giam đó. Đó không chỉ là một vi phạm công pháp quốc tế. Đó còn là sự thể hiện một nếp sống phi nhân, một tư duy du thủ, một hành xử côn đồ, và một trình độ bán khai. Cả bốn thứ đó gộp lại thành một đòn khủng bố trí mạng đối với những người văn minh không ưa thích bạo lực, ở đây là chính những người bị bắt, bất kể là quốc tịch VN hay nước ngoài, và thân nhân của họ, bất kỳ là ở trong hay ngoài nước.
Khủng Bố 4:
Ngày 27-11-007, báo SGGP đăng một bản tin do Tổng cục An ninh bộ Công an CSVN cung cấp dữ kiện, tựa đề là "Phá âm mưu khủng bố của tổ chức phản động ’Việt Tân’". Trong đó, lần đầu tiên có in hình ông Nguyễn Quốc Quân trong chiếc áo trắng sọc xám tù nhân. Ắt hẳn ông cũng đã được liệt vào diện tù nhân số lẻ, trước khi có cơ hội ra tòa cùng với một luật sư do chính ông chọn lấy. Quả là Tổng cục An ninh xứ ta xử lý tiến trình khủng bố cực kỳ nhanh gọn: Khoác ngay áo tù cho bất kỳ ai họ muốn. Bất kể trình tự pháp lý. Bất kể quy tắc điều trần. Bất kể quyền bào chữa. Bất kể dư luận quần chúng. Bất kể bộ mặt chế độ.
Điều đạt được duy nhất của Tổng cục An ninh trên bức ảnh này là biểu dương uy quyền tuyệt đối của một nhà nước độc quyền khủng bố nhân dân.
Khủng Bố 5:
Trên báo CAND-online ra ngày 28-11-2007, một bản tin loan báo có hai Việt kiều Mỹ bị bắt tại sân bay Tân Sơn Nhất từ ngày 23-11-2007, với "tang chứng" là một khẩu súng ngắn và 1 kẹp đạn. Họ bị bài báo này gán ngay cho tội danh "phản động khủng bố", và nhanh chóng bị ráp vào nhóm người bị bắt trước đó sáu ngày với "tang vật là gần 7.000 truyền đơn phản động của Việt Tân; hơn 8.000 bao thư; 3.775 tem bưu chính; 1.000 đề can in lôgô của Việt Tân. Lôgô này có ghi tần số, giờ phát sóng của đài ’Chân trời mới’ cùng một số phương tiện khác như máy in…".
Lý do hai Việt kiều này về nước được Tổng cục An ninh thông tin là: "Do chưa biết Vân, Sỹ, Bang đã bị bắt, Việt Tân cử tiếp hai thành viên là vợ chồng Lê Văn Phan - Nguyễn Thị Thịnh, Việt kiều Mỹ, nhập cảnh Việt Nam trên chuyến bay CX 767, mang theo 1 súng ngắn kiểu Luger và 13 viên đạn để yểm trợ đồng bọn".
Cốt lõi của trò khủng bố này chỉ có một: Bỏ súng vào hành lý của hành khách ngay tại sân bay Tân Sơn Nhất để phục vụ cho mục tiêu thổi phồng hình ảnh khủng bố của những người bị bắt trước đó về việc in ấn tài liệu.
Kẽ hở của trò khủng bố này thì ngược lại, rất nhiều:
Một là: Hành khách chuyến bay từ Los Angeles về Sài Gòn phải đổi máy bay CX881 (Boeing 744) sang chuyến ngắn CX767 (Boeing 777) tại Hong Kong. Như vậy, hành lý đã đi qua máy kiểm X-quang 2 lần, ở sân bay LAX và sân bay HKG. Khẩu súng với kẹp đạn chỉ hiện ra ở phòng kiểm hành lý Tân Sơn Nhất. Ngẫu nhiên hai hành khách Phan-Thịnh trở thành nạn nhân khủng bố của công an CSVN, trong một dịp trở về quê hương đón Tết.
Hai là: Lối giải thích tiếp ứng của công an CSVN cực kỳ trẻ con (vì Việt Tân chưa biết người của họ bị bắt nên đưa thêm người vao tiếp ứng), trong khi Việt Tân đã ra thông cáo báo chí từ ngày 19-11-2007, thì mãi đến ngày 23-11-2007 mới có vụ việc khẩu súng Ruger xuất hiện tại phòng kiểm hành lý sân bay Tân Sơn Nhất.
Ba là: Không có một tổ chức nào tiếp ứng cho thành viên đấu tranh bất bạo động bị bắt về tội in ấn tài liệu bằng cách đưa thêm vào hiện trường ...một khẩu súng ngắn và 13 viên đạn. Ai cũng hiểu khẩu súng đó chẳng làm được gì đối với đảng CSVN đang có trong tay cả bộ quốc phòng lẫn bộ công an.
Bốn là: Súng đạn được bán lẻ, bán sỉ và bán công khai tràn ngập ở Việt Nam, Lào và Campuchia, từ súng ngắn, lựu đạn, đến súng tự động liên thanh... cho tới súng cộng đồng có càng chống hay bàn tiếp hậu. Cả thuốc nổ và mìn ê hề, mà nhiều người đã dùng để phá núi hay ném cá. Đem USD về mua súng ngay tại Việt Nam, nếu cần, sẽ nhiều lần dễ dàng và rẻ hơn phương án đem súng ngang qua cửa khẩu.
Năm là: Công an CSVN chưa học thuộc bài học vu khống chữ "khủng bố" cho ông Đỗ Thành Công trước đây, khi vu tin ông Công về khủng bố sứ quán Mỹ. Ông Công đã được sứ quán Mỹ can thiệp để trở về Mỹ, và sau đó được Tổng thống Bush tiếp kiến cùng các nhà dân chủ khác ngay tại phòng Bầu Dục trong Nhà Trắng.
Sáu là: Văn phòng Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) và hệ thống Cảnh sát Quốc tế (Interpol) có nghìn lẻ một cách điều tra nguồn gốc của khẩu súng. Khó nhất cho FBI là ở chặng đầu: công an CSVN có dám giao khẩu súng đó cho Mỹ điều tra không? Còn khó nhất cho công an CSVN là khi FBI đòi xem luôn đoạn phim trình tự kiểm soát, quay bằng máy camera thanh tra tự động đặt ngay phía trên bàn kiểm hành lý.
Còn hệ quả của trò khủng bố không kín kẻ này cũng nhiều không kém. Tạm liệt kê một vài:
Thứ nhất, đây là đòn khủng bố trực tiếp giáng lên đại khối Việt kiều từng là nguồn thu nhiều tỷ USD hàng năm của nhà nước. Hiện họ đã đặt vé để về Việt Nam ăn Tết, và sẽ có nhiều người e dè đòn khủng bố này mà đổi ý. Còn nếu có người tiếc tiền mà về thì cũng là về trong tâm trạng phập phồng lần cuối. Con số doanh thu từ Việt kiều có nhiều xác suất tuột dốc thảm hại ngay sau Tết.
Thứ nhì, khi thấy hai nạn nhân Phan-Thịnh đi máy bay Cathay Pacific về Việt Nam mà còn bị bỏ súng vào hành lý thì làm sao Việt kiều dám đặt vé các chuyến ngắn Code Share của Vietnam Ailines đối với các hãng hàng không dân dụng Đông Á & Đông Nam Á từ các chặng chuyển tiếp Hong Kong, Seoul, Taipei v.v... Ngoài súng ống, người ta còn ngại các thứ hành lý bất ngờ khác như cần sa, ma túy... mà công an CSVN có thể cài đặt để tống tiền (các doanh nhân) hay để hãm hại (người thường), trên cả đường bay quốc tế lẫn nội địa. Đây là nguyên nhân chính của hiện tượng tẩy chay Vietnam Airlines sẽ xảy ra mà không nhất thiết cần ai kêu gọi.
Thứ ba, đây không chỉ là đòn khủng bố đối với Việt kiều, mà còn là đòn khủng bố đối với các nước có bang giao với Việt Nam. Các sứ quán sẽ không còn thì giờ lo việc ngoại giao khi phải liên tục giải cứu công dân của họ. Sau khi truy ra nguồn gốc vụ việc, Mỹ (và nhiều nước khác) có thể ban hành một khuyến cáo du lịch Việt Nam ở mức độ hiểm nghèo (Red Alert) cho công dân của họ. Kỹ nghệ du lịch của Việt Nam nên chuẩn bị cho con số doanh thu tuột dốc là vừa.
Khủng bố là gì? ...Và ai là kẻ có nhiều kinh nghiệm khủng bố nhất?
Hãy hỏi hàng triệu nạn nhân miền Bắc bị đấu tố thời "Cải cách Ruộng đất". Hãy đọc lại thơ Xuân Diệu thời đó. Hãy coi lại cuốn phim "Chúng tôi muốn sống" và hỏi thăm nhiều triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam. Hãy hỏi hàng ngàn nạn nhân dở sống dở chết thời "Xét lại-Chống đảng". Hãy hỏi hàng trăm văn nghệ sĩ bầm dập mấy mươi năm từ thời "Nhân Văn-Giai Phẩm". Hãy hỏi hàng chục, hàng trăm ngàn nhân dân miền Nam bị đọc án lệnh dưới ánh mã tấu vào lúc nửa đêm trong suốt thời 1954-1975. Hãy hỏi tín đồ Hòa Hảo về sự vắng mặt của Đức thầy Huỳnh Phú Sổ. Hãy hỏi thân nhân của hàng chục ngàn nhân dân ở Huế bị chôn sống trong trận tấn công hồi Tết Mậu Thân. Hãy hỏi thân nhân của hàng chục ngàn nhân dân Quảng Trị trên "Đại lộ kinh hoàng" năm 1972. Hãy hỏi hàng triệu nhân dân Nam bộ về đận "kinh tế mới". Hãy hỏi nhân dân cả nước về thời "Ngăn sông Cấm chợ". Hãy coi cuốn phim "Vượt sóng" và ngẫm xem vì sao nhân dân chọn lựa con đường mười chết một sống đó. Hãy hỏi hàng trăm ngàn quân cán chính miền Nam và hàng triệu thân nhân của họ về thời "Tù cải tạo". Hãy hỏi hàng ngàn chục ngàn đồng bào Tây Nguyên đối diện với nhiều trung đoàn công an cơ động mới đây. Hãy đọc quyết định 31/CP. Hãy tra lại điều luật 88. Hãy hỏi... Hãy hỏi...
Nửa thế kỷ sau thời Việt Minh "xử lý" hàng ngàn đảng viên Việt Quốc, Đại Việt v.v... bằng bao tải nhận sông, cụm từ "khủng bố" được hậu duệ và đồ đệ chân truyền của Việt Minh tái định nghĩa là hành động ...in ấn tài liệu đấu tranh bất bạo động!
Đó là thứ định nghĩa không nằm trên tự điển mà nằm trên xà lim. Điểm khó của sự ứng dụng là thời nay, hiện ở trong nhà tù lớn, còn có mấy ai sợ nhà tù nhỏ? Hòa thượng Quảng Độ từng minh chứng sáng ngời cho điều đó bằng hai chữ Vô Úy của nhà Phật.
Đó cũng là thứ định nghĩa của bạo lực trấn áp độc quyền. Điểm khó là tự nó, chính những kẻ độc quyền bạo lực trấn áp thường xuyên ra tay khủng bố đồng bào của họ, càng leo thang bạo lực thì lại càng chứng tỏ là đang vào bước đường cùng. Nicolae Ceausescu, Augusto Pinochet, Mohammed Suharto, và cả Saddam Hussein... đã để lại cho toàn nhân loại những tấm gương tầy liếp.
"Tôi đòi hỏi dân chủ, tự do và đa đảng để người dân Việt Nam có thể hành xử quyền được tự do lựa chọn chính đảng nào lãnh đạo đất nước"... nhất định không phải là câu nói riêng của mỗi mình Ls Nguyễn Văn Đài. Công việc in ấn của các anh chị Việt Tân cùng tuổi trẻ Việt Nam hôm nay cũng chỉ là một cách bày tỏ sự chọn lựa ôn hòa mà quyết liệt tương tự.
Họ là những anh hùng trong thời bình và vì hòa bình cho một ngày Việt Nam cất cánh.


Những chuyện chưa ai nói


Biến Động Miền Trung
Liên Thành
Phần 1
L.T.S : Cuộc "cách mạng" 1-11-63 thành công, làm xáo trộn tình hình chính trị, đồng thời đưa đến những hệ lụy không hay cho nhân dân miền Nam, mà khởi đầu là biến động miền Trung - Sự kiện này đã làm lộ rõ những tham vọng, những mưu đồ bất chính của những con người đội lốt nhà tu, những tướng lãnh, chính trị gia hoạt đầu - Những người này đã cố ý hoặc vô tình bị cán bộ cộng sản nằm vùng sai khiến, làm tay sai cho chúng phá hoại, để rồi sau đó chúng cưỡng chiếm miền Nam .
Có những sự thật mà chưa được ai nói đến, các nhân chứng trong giai đoạn lịch sử này mỗi lúc một già, mỗi ngày một qua đi, đem theo những bí mật về bên kia thế giới, mai đây các thế hệ sau lấy đâu tra cứu .
Chúng tôi được tác giả Liên Thành, một người sinh ra và lớn lên rồi phục vụ ở cố đô Huế, ông là cựu Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên - Huế, đã nắm vững tình hình từ sau ngày 1-11-63 vì khi đó ông đã phục vụ, đã tham dự vào những sự kiện lịch sử này, nay kể lại cho mọi người cùng nghe .
Ban Biên Tập cũng minh xác: chúng tôi không hề có ý đả phá bất cứ tôn giáo nào, cụ thể là Phật Giáo. Xin đừng hiểu lầm vì nhiều nhân sự trong loạt bài này là những đảng viên cộng sản, trà trộn vào hàng ngũ chư tăng, đội lốt nhà tu để hoạt động cho mục đích riêng của họ. Hơn nữa ông Liên Thành là một Phật tử thuần thành. Gia đình ông có truyền thống đạo đức lâu đời, chú và anh ruột của ông là hai vị thượng Toạ, đức cao, vọng trọng tại Huế, nên ông cũng rất cẩn trọng về việc này và không muốn bị đánh giá không đúng về những điều ông công bố.
TS/BĐQ

Miền Trung và Thừa Thiên-Huế sau ngày 1-11-1963
Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên, Huế, đại đa số quần chúng theo đạo Phật, có thể đến 2/3 dân số. Trong cuộc đảo chánh 1/11/1963 lật đổ nền Đệ I Cộng Hòa và hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng hai bào đệ của Tổng Thống là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, ngoài Hoa Kỳ và một số Tướng Lãnh VNCH, Phật Giáo Ấn Quang là một trong những lực lượng chủ lực của cuộc đảo chánh này. Vì vậy sau khi thành công, thế lực và ảnh hưởng của Phật Giáo Ấn Quang trong chính quyền và quần chúng rất mạnh.
Thành phố Huế có 3 quận đó là quận 1,2,3. (hay Hữu Ngạn, Tả Ngạn và quận Thành Nội). Tỉnh Thừa Thiên có 10 quận từ bắc giáp ranh với tỉnh Quảng Trị là Phong Điền,Quảng Điền, Hương Điền, Hương Trà, Phía nam thành phố Huế là Hương Thủy, Phú Vang, Vinh Lộc, Phú Lộc, Phú Thứ, phía tây là Quận lỵ Nam Hòa. Tổng cộng có 73 Xã.
Dựa theo hệ thống tổ chức địa dư và hành chánh của Chính Phủ VNCH, Phật Giáo Ấn Quang có 73 Khuôn Hội Phật Giáo ở cấp Xã, 13 Khuôn Hội Phật Giáo ở cấp Quận, và Tỉnh hội Phật Giáo. Ngoài ra, trong chính quyền, Phật Giáo Ấn Quang còn có các tổ chức ngoại vi: Công Chức Phật Tử, Học Sinh Phật Tử, Sinh Viên Phật Tử, Sư Đoàn I thì có Quân Nhân Phật Tử (Chiến Đoàn Nguyễn đại Thức). Cảnh Sát Quốc Gia thì có Cảnh Sát Phật Tử, đặc biệt hơn nữa là các bà tiểu thương Phật Tử chợ Đông Ba.
Lãnh đạo Phật giáo miền Trung và Thừa Thiên Huế là thầy Thích Đôn Hậu, trụ trì Chùa Linh Mụ, với chức vụ Chánh Đại Diện Phật Giáo Ấn Quang Miền Vạn Hạnh. Thích Đôn Hậu là cơ sở nòng cốt và lá bài tối quan trọng của Cộng Sản tại miền Trung, bắt rễ sâu trong Phật Giáo. Tên cán bộ cộng sản điều khiển Thích Đôn Hậu trong bóng tối chính là Hoàng Kim Loan.
Mậu Thân 1968, trong những ngày đầu chiếm Huế, Hà Nội tưởng đã thắng nên cho Thầy tu Thích Đôn Hậu xuất đầu lộ diện trong lực lượng ngoại vi của Cộng Sản: Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình. Những ngày kế tiếp khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Cảnh Sát Quốc Gia và lực lượng Hoa kỳ phản công mạnh tái chiếm Huế, Hoàng Kim Loan đã phái cán bộ hộ tống Thích Đôn Hậu qua ngã Chợ Thông, Văn Thánh lên mật khu và từ đó đi ra Bắc. Tại Hà Nội, Đôn Hậu cùng với các tên Cộng Sản nằm vùng tại Huế trước 1966 như Tôn Thất Dương Kỵ, Tôn Thất Dương Tiềm v.v.. theo lệnh Trung Ương Đảng thành lập phái đoàn Đại Diện Trí Thức và Tôn Giáo Miền Nam đi Trung Cộng, Tây Tạng, truyên truyền cho Hà Nội. Đến 1975, y trở lại trụ trì tại Chùa Linh Mụ.
Nhân vật thứ hai đầy quyền uy không những đối với Phật Giáo đồ miền Trung mà toàn cả Phật Giáo đồ miền Nam Việt Nam đó là Thích Trí Quang - Ông này tên thật là Phạm Văn Bồng, quê quán làng Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, cùng quê với Tổng Thống Ngô Dình Diệm. Xuất gia từ năm 14 tuổi, trước 1955 y đã trú ngụ tại Chùa Từ Đàm. Chùa từ Đàm nằm về phía tây thành phố Huế cạnh dốc Nam Giao và dốc Bến Ngự, sát bên nhà thờ cụ Phan Bội Châu. Trụ trì chùa Từ Đàm là Thích Thiện Siêu cũng là cơ sở của Hoàng Kim Loan. Sau năm 1975, Thiện Siêu được Hà Nội cho làm Dân Biểu trong Quốc Hội Của chúng. Theo hồ sơ của sở Liêm Phóng tức Mật Thám Pháp còn lưu tại ban Văn Khố Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên, Huế và sau nầy tin tức thẩm vấn cán bộ Việt Cộng được cập nhật thêm, thì Thích Trí Quang là đảng viên Côïng Sản. Thích Trí Quang gia nhập đảng Cộng Sản Việt Nam vào 1949 tại mật khu Lương Miêu, Dương Hòa. Lương Miêu. Dương Hòa là một làng nhỏ nằm về phía tây lăng vua Gia Long cách làng Đình Môn khảng 30 cây số đường bộ. Người kết nạp và chủ tọa buổi lễ gia nhập đảng cho Thích trí Quang là Tố Hữu, đảng viên cao cấp của đảng Cộng Sản Việt Nam. Mùa thu năm 2000 tại Hà Nội, nhân nói đến các nhân vật chính trị tại miền Nam trước 1975, chính Tố Hữu xác nhận y là người kết nạp Phạm Văn Bồng tức Thích Trí Quang vào đảng Cộng Sản.
Tên Việt Côïng thứ 3 đội lốt thầy tu, tối nguy hiểm, đó là Thích Chánh Trực, đệ tử ruột, truyền nhân của Thích Trí Quang. Thích Chánh Trực tu tại Chùa Tường Vân, nằm giữa chùa Từ Đàm và Đàn Nam Giao. Chùa Tường Vân là nơi tu hành của Ngài Thích Tịnh Khiết Giáo Chủ Phật Giáo V. N. Thích Chánh Trực hoạt động bề nổi, mọi cuộc biểu tình, tuyệt thực, lên đường xuống đường, đều có mặt Thích Chánh Trực. Trực là cơ sở Tôn Giáo Vận của Hoàng Kim Loan đã từng đưa Hoàng Kim Loan vào ở với y tại Chùa Tường Vân trong hơn 1 năm. Tên này dáng dấp cao to, mắt trắng môi thâm, nhìn thẳng vào hắn thấy rõ 3 chữ: Tham, Sân, Si, hiện trên nét mặt, khuôn mặt của kẻ lưu manh gian ác. Hắn đã lén lút có một đứa con trai với một nữ tín đồ, chuyện này Hoàng Kim Loan biết rõ hơn ai hết.
Từ sau ngày đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963, thế lực, quyền lực tột đỉnh của Phật Giáo Ấn Quang tại miền Trung và Thừa Thiên-Huế, nằm gọn trong tay của 3 tên Cộng Sản: Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Chánh Trực. Phía sau hậu trường là Hoàng Kim Loan cán bộ Điệp báo phụ trách Dân Vận, Trí Vận và Tôn Giáo Vận sắp xếp và giựt giây. Chùa Từ Đàm trở thành Dinh Độc Lập tại miền Trung, Trung Tâm Quyền Lực. Mọi bổ nhiệm các cấp chỉ huy Hành Chánh và Quân sự từ Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng v.v... tại 6 Tỉnh miền Trung và đặc biệt là Thừa thiên - Huế, đều phải có sự chấp thuận của Chùa Từ Đàm, của Thầy. Mọi cuộc biểu tình, lên đường, xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu chống đối chính quyền Trung Ương Sài Gòn, đều xuất phát từ chùa Từ Đàm, từ Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu.
Trong khi đó thì tên điệp báo Việt Cộng Hoàng Kim Loan dựa vào thế lực của Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Chánh Trực, tổ chức, kết nạp và gài nội tuyến vào hàng ngũ Phật Giáo. Từ khuôn Hội Phật Giáo ở cấp Xã, Quận, Tỉnh Hội, vào Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Huế, vào Tổng Hội học sinh tại các trường Trung Học, vào các nhóm tiểu thương chợ Đông Ba, Bến Ngự, và vào cơ quan Quân Sự, Hành Chánh của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tại Thừa Thiên, Huế. Ngay cả một vài Đảng phái chính trị xưa nay nổi tiếng chống Cộng cũng bị Hoàng kim Loan cài nội tuyến vào.
Ngay khi tiếng súng Cách Mạng 1-11-1963 vừa dứt tại Huế, theo lệnh Hà Nội, mục tiêu đầu tiên của Hoàng Kim Loan là đánh tan tành, đánh vỡ ra từng mảnh vụn các cơ quan Tình Báo Quốc Gia và giải thoát tất cả các cán bộ cao cấp của bọn chúng đã bị các cơ quan này bắt giữ.
Thừa Thiên- Huế trước 1963, các cơ quan An ninh, Tình báo hoạt động rất hữu hiệu. Hầu hết các tổ chức, cơ sở Việt Cộng đều bị khám phá và bị bắt giữ bởi Ty Công An Thừa Thiên. Trưởng Ty là Ông Lê Văn Dư, và Đoàn Đặc Nhiệm Công Tác Miền Trung, Trưởng Đoàn là Ông Dương Văn Hiếu. Thế nhưng, còn có một cơ quan tình báo tối mật của quốc gia đóng tại Huế mà hầu như ít ai biết được.
Ai đã từng ở Huế cũng đều biết vị trí của tòa Đại Biểu Chính Phủ nằm trên đường Lê Lợi, đối diện với trường Luật của Viện Đại Học Huế. Sát bên bờ sông Hương cạnh Tòa Đại Biểu. Mặt sau của Bộ Chỉ Huy Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn có một ngôi biệt thự màu hồng, trang nhã, trầm lặng, mặt tiền nhìn ra dòng sông Hương, một dàn hoa vông vang vàng như nghệ phủ kín bờ tường, đường vào cổng chính của ngôi biệt thự cứ mỗi độ hè về hai hàng phượng vĩ bên vệ đường nở đỏ phủ đầy lối đi. Thoạt nhìn cứ ngỡ ngôi biệt thự màu hồng nầy là của một giai nhân quí phái nào đó ở đất Thần kinh. Nào có ai ngờ rằng ngôi biệt thự màu hồng thơ mộng này chính là Bộ Chỉ Huy một Cơ Quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, chỉ huy và điều khiển những Điệp Vụ ngoài Bắc. Những điệp viên của cơ quan nầy tung ra miền Bắc với nhiệm vụ phá rối Chính Trị, tổ chức và phát động những phong trào nhân dân nổi dậy chống đối chính quyền Hà Nội.
Đạo diễn chính vụ nhân dân Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền Miền Bắc vào năm 1956 là một thí dụ điển hình công tác và nhiệm vụ của cơ quan này. Vào năm 1955, tại làng Phú Cam, trong khu vườn rộng nhà ông Nguyễn Văn Đông Tỉnh Trưởng Tỉnh Quảng Trị, ông Nguyễn văn Đông đã cất một ngôi nhà tranh cho một người bạn thân trú ngụ. Người nầy thoạt nhìn khuôn mặt khó đoán được tuổi tác là bao nhiêu 30, 35, 40 tuổi? Nhỏ người, dáng dấp thư sinh, nhưng nét mặt rất thông minh, nói giọng khó nghe, xuất phát từ Nghệ An, Hà Tĩnh. Ít ai biết được chàng thư sinh nầy đi giờ nào và về giờ nào, nếu có tình cờ thấy anh ta đang đạp chiếc xe đạp lọc cọc đi làm thì cũng nghỉ rằng anh ta chỉ là một thầy giáo hay là một công chức nghèo. Chàng thư sinh này chính là ông Phan Quang Đông người chỉ huy một cơ quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia với những Điệp Vụ phía bắc vĩ tuyến 17. Ông ta là chủ nhân của ngôi biệt thư màu hồng, một nhân vật thượng đẳng, một Bông Hồng hiếm quí của Tình Báo miền Nam.
Tại Huế một vài ngày sau khi cuộc Cách Mạng lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, theo lệnh của của Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, hằng chục ngàn Phật Giáo đồ ồ ạt xuống đường biểu tình hoan hô, đả đảo, truy bắt Cần Lao, truy bắt Công An, Mật Vụ Nhu Diệm. Cấp chỉ huy các đơn vị tình báo của Ty Công An Thừa Thiên Huế và Đoàn Đặc Nhiệm công tác miền Trung kẻ bị bắt tống giam vào lao Thừa Phủ, kẻ bị sa thải, kẻ thì bỏ trốn. Chỉ huy Trưởng Cơ Quan Điệp Báo hoạt động tại miền bắc là Phan Quang Đông cũng cùng chung số phận.
Tướng Đỗ Cao Trí là Tư Lệnh lực lượng đảo chánh tại Huế đã phái một đơn vị nhỏ cùng với một sĩ quan bao vây căn nhà màu hồng bắt ông Phan Quang Đông. Ông Phan Quang Đông nói với viên Sĩ Quan:
- Tôi phải gặp Tướng Đỗ Cao Trí trước khi nạp mình cho các anh.
Yêu cầu của ông Đông đã được Tướng Đỗ Cao Trí chấp thuận. Buổi gặp mặt chỉ có 3 người. Tướng Đỗ Cao Trí, ông Phan Quang Đông và chánh văn phòng của ông Đông. Ông Đông nói rất ngắn, gọn với Tướng Đỗ Cao Trí:
- Chúng tôi hoạt động ngoài Bắc. Không dính dấp gì đến chuyện trong Nam. Một số nhân viên của tôi hiện đang hoạt động ngoài đó Thiếu tướng lo cho họ.
Không một hồ sơ, tài liệu, danh sách nhân viên và máy nóc truyền tin liên lạc ngoài Bắc được ông Phan Quang Đông chuyển giao lại cho Tướng Trí. Tất cả đã biến mất nhiều giờ trước khi căn nhà màu hồng nầy bị bao vây. Đây là quyết định và hành động của ông Đông để bảo mật và bảo vệ sinh mạng cho nhân viên, những Điệp viên đang hoạt động và đang kẹt lại tại miền Bắc.
Các cuộc biểu tình hoan hô Cách Mạng, đã đảo Nhu, Diệm, Cần Lao, Công An, Mật Vụ vẫn tiếp tục tại Huế. Một nguồn tin được tung ra: Một số quí Thầy bị Mật Vụ Nhu, Diệm bắt hiện đang giam tại Chín Hầm.
Trước 1963, ít ai nghe và cũng chẳng ai biết địa danh Chín Hầm. Chín Hầm nằm về phía Tây thành phố Huế, ngay phía sau lăng Vua Khải Định và cạnh dòng tu Thiên An. Đó là một dãy 9 hầm của quân đội Nhật, rồi đến quân đội Pháp dùng để chứa đạn, đúng nghĩa đó là 9 hầm chứa đạn, kho đạn. Sau khi nguồn tin được tung ra là các Thầy bị giam tại Chín Hầm, đã có người hướng dẫn, hằng ngàn thiện nam, tín nữ, Sinh Viên, Học Sinh, các bà tiểu thương chợ Đông Ba ào ạt kéo lên Chín Hầm giải thoát cho Quí Thầy.
Màn kịch diễn ra tại Chín Hầm thật thương tâm, khiến người thiệt thà ngây thơ đứng xem phải rơi lệ. Soạn giả và diễn viên của vở kịch nầy quá xuất sắc. Quí Thầy được các tín đồ đưa từ các hầm giam ra ngoài, có thầy quá đuối sức đi không nổi phải có người dìu đi. Quí thầy đều mặc áo nâu sồng, đầu cạo láng bóng. Tín đồ nhào vào nhất là các bà tiểu thương Phật Tử chợ Đông Ba ôm chầm Quí Thầy khóc lóc thảm thiết. Nào ai biết được, tất cả là đồ giả, Quí Thầy là đồ giả. Bọn chúng là đám Việt Cộng thứ thiệt, thứ cao cấp bị bắt giữ.
Trước đó một vài hôm, cơ sở của bọn chúng đã đem áo nâu sồng vào cho bọn chúng mặc, cạo đầu láng bóng, ngồi đợi để được giải thoát. Mà Quí Thầy được giải thoát thật. Nhưng sau khi được giải thoát, Quý Thầy không về chùa mà lại lên núi tu hành tại các mật khu để rồi Mậu Thân 1968 tu hành đắc đạo xuống núi bắn giết đồng bào Huế. Ra lệnh chôn sống gần 5000 ngàn thường dân trong những mồ chôn tập thể, trong số 5000 ngàn nạn nhân đó số lượng phật giáo đồ chân chính không phải là nhỏ, rồi đến 1975 bọn này lại bắt bớ tù đày biết bao nhiều người dân Huế.
Màn bi kịch Chín Hầm vừa nói trên đạo diễn là Thích Đôn Hậu, ThíchTrí Quang, Thích Chánh Trực. Diễn viên là Hoàng Kim Loan và các cơ sở của hắn đã cài vào trong hàng ngũ Phật Giáo. Bọn chúng đã hoàn tất nhiệm vụ mà Hà Nội giao phó: Giải Thoát tất cả các cán bộ Cộng Sản cao cấp bị lực lượng An ninh của Chính Phủ Việt Nam Coông Hòa bắt giữ .
Những ngày kế tiếp, dưới áp lực của Quí Thầy, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cho thành lập Tòa Án Quân sự tại Huế đem Ông Phan Quang Đông ra xử. Với tội danh: Mật Vụ Nhu, Diệm. đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu, bắt giam và hành hạ dã man, tàn bạo Quí Thầy và tín đồ Phật Giáo. Với tội danh bị vu cáo này, toà tuyên án tử hình Phan Quang Đông. Và Ông đã bị xử bắn tại sân vận động Tự Do tức sân Vận Động Bảo Long tại Huế. Đồng ý khi bước chân vào nghề Tình báo, nghề của một Điệp Viên, sinh nghề tử nghiệp đó là chuyện thường tình khi bị sa vào tay địch. Nhưng đau đớn và nghiệt ngã là địch đã dùng những người Quốc Gia, dùng súng của những người cùng chiến tuyến chống Cộng Sản, bắn những phát đạn vào thân thể ông. Nỗi oan khiên ngút tận trời xanh, chỉ có Ông biết, chiến hữu của Ông biết, trời biết, đất biết, hồn thiêng sông núi biết và..Tổ Quốc Ghi Công. Những người ngồi xử ông Phan Quang Đông, từ Chánh Án, Chánh Thẩm, Công Tố là những Sĩ Quan, là những viên chức cao cấp hành chánh của Chính Phủ miền Nam Việt Nam. Giờ này họ còn hay đã mất, tại quê nhà hay hải ngoại, có ai hối hận không, khi đem Ông Phan Quang Đông một cấp Chỉ huy thượng đẳng của cơ quan Điệp Báo miền Nam hoạt động ngoài Bắc ra xử bắn. Các ông đã quá hèn hạ sợ mất lon, mất chức, bán rẻ lòng lương thiện tối thiểu, cúi đầu theo lệnh những tên Việt Cộng nằm vùng trong Phật Giáo như Đôn Hậu, Trí Quang và sau lưng là Hoàng Kim Loan, là Cục 2 Quân Báo và Nha Liên Lạc tức Cục Tình Báo Chiến Lược của Hà Nội.
Sau ngày 1-11-1963, hệ thống tình báo hữu hiệu của miền Nam đối đầu với 2 cơ quan Cục Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược của Cộng Sản Hà Nội hoàn toàn bị sụp đổ. Cơ quan Tình Báo phụ trách miền Bắc của ông Phan Quang Đông và Đoàn các Công Tác Đặc Biệt phụ trách an ninh miền Nam của Ông Dương Văn Hiếu bị địch dùng bàn tay người quốc gia: Hội Đồng Cách Mạng đánh phá tan tành, kẻ bị bắt tù đày, kẻ bị sa thải. Tất cả đều mang tội danh Mật Vụ của Nhu, Diệm đàn áp Phật Giáo..
Thử nhìn lại một vài thành quả công tác của hai cơ quan này, để thấy có phải họ là Mật Vụ đàn áp Phật Giáo hay không: Vụ nhân dân Quỳnh Lưu Tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền miền Bắc năm 1956, kế hoạch và hành động đều do ông Phan Quang Đông và những Điệp viên ông gởi ra miền Bắc thực hiện. Còn nhiều những điệp vụ khác nữa, mà mãi đến nay tuy thời gian tính cũng đã quá lâu, nhưng vẫn không thể tiết lộ.
Những Chuyện Chưa Ai Nói
Biến Động Miền Trung
Liên Thành
Phần 2

. . . . .
Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung do Ông Dương Văn Hiếu Chỉ huy. Trách nhiệm của cơ quan này là đối đầu và vô hiệu hóa mọi hoạt động của những Điệp viên thuộc hai cơ quan tình báo miền Bắc gởi vào Nam: Đó là Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược tức Nha Liên Lạc.
Tổ chức Điệp Báo của Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lươc của Cộng Sản rất tinh vi, phương pháp hành động của chúng là: Đơn Tuyến, Chia cách, và Bảo Mật tối đa. Chỉ Huy Trưởng Cục 2 Quân Báo tại Hà Nội là Đại Tá Lê Trọng Nghĩa.
Tại Miền Nam, Bộ chỉ Huy Cục 2 Quân báo đóng tại vùng núi Cao nguyên Trung phần thuộc Tỉnh Pleiku và Đại Tá Lê Câu làm Chỉ Huy Trưởng. Trước 1954, Lê Câu với quân hàm Thiếu Tá, chỉ huy màng lưới Quân Báo các Tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng Nam. Đại Tá Lê Câu bị Đoàn Đặc Nhiệm miền Trung bắt vào năm 1961, khi y rời căn cứ về Sài Gòn, đến nhà Phạm Bá Lương để tiếp xúc và nhận tài liệu mật của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa do Phạm Bá Lương cung cấp. Phạm Bá Lương là cơ sở nội tuyến của Đại Tá Lê Câu. Phạm bá Lương làm tại Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa với chức Vụ Công Cán ủy Viên. Bộ trưởng Ngoại Giao thời đó là ông Vũ Văn Mẫu. Sau 1975 Lê Câu giữ chức Vụ Tổng Thanh Tra ngành Công An Việt Cộng.
Nhân vật kế tiếp bị Đoàn Đặc Nhiệm Miền Trung bắt là Trần Quang, Thường vụ Tỉnh Đảng Bộ Quảng Trị. Trần Quang được Đảng Bộ Liên Khu 5 bổ nhiệm làm trưởng lưới Điệp Báo từ Quảng Trị vào đến Phan Thiết và các tỉnh Cao Nguyên Trung Phần. Nguyễn Vĩnh Nghiệp cán bộ đặc trách Khu ủy Sài Gòn Tư Hùng Cán Bộ Đặc Khu Sài Gòn. Toàn bộ là Đảng viên Cộng sản nằm trong Tổng Liên Đoàn Lao Công của ông Trần Quốc Bửu bị sa lưới Đoàn Đặc Nhiệm Công Tác Miền Trung. Tư Lung, Thường Vụ Liên Khu ủy Liên Khu 5 gồm các tỉnh Đảng Bộ từ Quảng Trị đến Phan Thiết và Cao Nguyên Trung Phần. Nhiệm vụ của Tư Lung là điều hành và chỉ đạo mọi sách lược của Đảng Cộng Sản đối với các tỉnh vừa nêu trên. Tư Lung bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm bắt ngay tại đường Cống Quỳnh Sài Gòn vào năm 1958.
Nguyễn Lâm, trưởng Ban Điệp báo Liên Khu 5, bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt vào cuối năm 1957 tại Saigòn.
Mục tiêu kế tiếp của Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung là Cục Tình Báo Chiến Lược Việt Cộng hay Nha Liên Lạc. Chỉ huy trưởng Tổng Cục Tình Báo Chiến lược Việt Cộng là Trần Hiệu. Người chỉ huy Cục Tình báo Chiến Lược Việt Cộng tại Miền Nam Việt Nam là Trần Quốc Hương tự Trần Ngọc Trí tức Mười Hương.
Mười Hương là Khu Uỷ Viên là Chính Ủy. Từ miền Bắc hắn vào miền Nam với nhiệm vụ kiểm tra và chỉ đạo mọi công tác của Cục Tình Báo Chiến Lược Việt Cộng tại miền Nam, đồng thời phân tích và lượng giá tình hình quân sự và chính trị của chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa để Trung Ương Đảng tại Hà Nội có kế hoạch đối phó. Mười Hương đã bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt tại Sài Gòn vào tháng 7 năm 1958.
Minh Vân tức Đại Tá Nguyễn Đình Quảng được Cục Tình Báo Chiến lược Việt Cộng Hà Nội tung vào miền Nam theo những người di cư vào năm 1954. Bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt vào năm 1958. Trần Tấn Chỉ, nguyên phó Trưởng Ban Tình báo thành phố Hải Phòng, cán bộ chuyên nghiệp trong ngành Tình Báo Chiến Lược. Theo lệnh của Tổng Cục Trưởng Trần Hiệu xâm nhập miền Nam hợp pháp bằng cách nhập vào đoàn dân di cư vào Nam 1954. Tại Sàigòn, y đã len lỏi vào làm việc tại cơ quan USIS của tòa Đại Sứ Mỹ. Trần Tấn Chỉ bị Đoàn Công Tác Miền Trung phát giác hành tung và bắt giữ vào năm 1958.
Đại Tá Văn Quang tức Trang Công Doanh, cán bộ nòng cốt của Cục Tình Báo Chiến lược. Đại Tá Quang theo đoàn người di cư vào Nam năm 1954. Y được Đặc Khu Saigon - Chợ Lớn Cộng Sản đưa vào làm việc tại cơ quan USOM của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, Saigòn. Đại Tá Văn Quang bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt vào 1958.
Lê Thanh Đường, phái khiển Tình Báo. Thuộc Cục Tình Báo Chiến Lược theo đợt di cư 1954 vào Nam. Nghề Nghiệp hợp pháp tại Sàigòn: Nhân viên Tổng nha Công Chánh tại Sàigòn. Lê Thanh Đường bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt vào 1959.
Tôn Hoàng, phái khiển Tình Báo,Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng Sản. Theo đợt di cư 1954 vào Nam,Tôn Hoàng bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt năm 1959.
Dư Văn Chất, phái khiển Tình Báo, Cục TBCL Cộng Sản, theo đợt di cư 1954 vào Saigòn, chức vụ Trưởng Lưới Tình Báo. Dư Văn Chất bị Đoàn CTĐNMT bắt vào năm 1958 tại Saigòn.
Sau 1975 Dư Văn Chất giữ chức vụ Ủy Viên Thành Ủy Đảng Bộ TP/HCM kiêm Trưởng Ban Tuyên Huấn Thành Ủy.
Nguyễn Văn Hội, Trưởng phòng Giao Thông Cục Tình Báo Chiến lược. Trước 1954 Nguyễn Văn Hội là Trưởng Ban Điệp Báo Của Liên Khu Ủy 5. Nhiệm vụ của Nguyễn Văn Hội là tổ chức hệ thống giao thông, giao liên của Cục TBCL Việt Cộng tại Việt, Miên, Lào. Nguyễn Văn Hội bị Đoàn CTĐNMT bắt vào năm 1958.
Hoàng Hồ, phái khiển Tình Báo. Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng Sản. Hoàng Hồ là Chủ Nhiệm Tuần Báo Trinh Thám tại Sàigòn. Hoàng Hồ bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt giữ. Sang Đệ Nhị Cộng Hòa y là Dân Biểu.
Vũ Ngọc Nhạ, Điệp Viên thuộc Cục TBCL Cộng Sản. Bị Đoàn CTĐBMT bắt lần 1 tại Sàigòn. Sau đó bị Đại Tá Nguyễn Mâu, Trưởng Khối Cảnh Sát Đặc Biệt Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và bộ phận Đặc Biệt của ông gồm những người cũ trong Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung của Ông Dương Văn Hiếu bắt lần thứ 2, và triệt tiêu Cụm A 22 TBCL khi y xâm nhập tiếp cận với Phủ Tổng Thống VNCH.
Trước đó, hầu hết những cán bộ Cộng Sản thuộc Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lươc Cộng Sản bị Đoàn CTĐBMT bắt giữ đều được đưa ra Huế giam giữ tại lao Thừa Phủ (Mặt sau tòa Hành Chánh Tỉnh Thừa Thiên và thị Xã Huế) hoặc Chín Hầm. Những ngày đầu của cuộc Cách Mạng 1-11-1963, Cục 2 Quân Báo,và Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng Sản qua Thầy tu Thích Đôn Hậu, Trí Quang, và Phái Khiển Tình Báo, Điệp viên Hoàng Kim Loan đã giải thoát một số bọn chúng tại Chín Hầm.
Số còn lại cách đó không lâu, đã được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đưa vào SàiGòn, và Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng là Trung Tướng Dương Văn Minh, và Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân, Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh Sát đã trân trọng trả tự do cho bọn Cộng Sản này vào đầu năm 1964. Để rồi bọn chúng tái hoạt động mạnh hơn, tinh vi hơn, tung hoành ngang dọc, tổ chức và gài người cùng khắp mọi đoàn thể chính trị, đảng phái, cơ quan dân sự hành chánh cũng như trong Quân Đội mà không một ai dám đụng đến bọn chúng kể cả các Tướng Lãnh trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, đến các chỉ Huy trưởng mọi cơ quan Tình Báo Dân Sự cũng như Tình Báo Quân Đội, và ngay đến các vị tướng Tư Lệnh các Quân Khu, có gan to bằng trời cũng không dám đụng đến bọn cán bộ Cộng Sản thứ thiệt và đám Việt Cộng đội lốt Thầy Tu này, vì đụng đến bọn chúng là bị chụp mũ: Tàn dư chế độ Nhu, Diệm, dư Đảng Cần Lao, đàn áp Quí Thầy và Phật giáo đồ, lập tức bị biểu tình đả đảo và bay chức ngay.
Sau 1-11-1963, Thích Trí Quang là Đấng Quốc Phụ của miền Nam Việt Nam, không một Chính Phủ nào tại Trung Ương Sàigòn có thể đứng vững quá 3 tháng nếu đi lệch hướng chỉ đạo của ông ta. Tướng lãnh trong Hội Đồng Cách Mạng bắt đầu thanh toán nhau tranh dành Ngôi Báu. Tướng lãnh lợi dụng Trí Quang để có được hậu thuẫn quần chúng Phật giáo, Trí Quang dùng Tướng lãnh cho mưu đồ và tham vọng của hắn.
Các cuộc biểu tình lên đường, xuống đường chống chính phủ diễn ra hằng ngày tại Saigòn, nay đảo chánh mai chỉnh lý, cứ như vậy tiếp tục cho đến cuối năm 1965. Mỗi lần nghe nhạc hùng trên đài phát thanh Sàigon, Huế là biết ngay có đảo chánh.
Đặc biệt nhất là cuộc chỉnh lý của tướng Lâm Văn Phát, Phạm Ngọc Thảo và Nguyễn Bảo Kiếm do bàn tay của Cục TBCL Cộng Sản đạo diễn.
Ngày19 tháng 2 năm 1965 tại Saigòn, Tướng Lâm Văn Phát đảo chánh, nhưng chủ soái của cuộc đảo chánh này là Đại Tá Phạm Ngọc Thảo (Đại Tá Quân Lực VNCH, cựu Tỉnh Trưởng) và Nguyễn Bảo Kiếm. Nếu cuộc đảo chánh thành công thì Đại Tá Phạm Ngọc Thảo sẽ là Thủ Tướng, Nguyễn Bảo Kiếm sẽ là Tổng Trưởng Nội Vụ Chính Phủ Việt Nam Côïng Hòa. Cũng may, nhờ mấy anh Cố Vấn Mắt xanh mũi lõ ngăn trở ngầm, cuộc đảo chánh của Tướng Lâm văn Phát không thành công như Trung Ương Đảng Cộng Sản Hà Nội mong đợi, và sau đó 1967(?) Đại Tá Phạm Ngọc Thảo bị Lực lượng An Ninh bắn hạ tại Biên Hòa. Sau 1975, Phạm Ngọc Thảo được Trung Ương Đảng Coông Sản phong Liệt Sĩ, Nguyễn Bảo Kiếm cũng lộ nguyên hình, hai tên nầy là điệp viên của Tổng Cục 2 TBCL Cộng Sản.
Tại Huế trong thời gian này, tình hình cũng rối loạn không khác gì Saigòn. Hằng loạt các cuộc đình công, bãi thị, bãi khóa, biểu tình chống chính phủ. Mọi sinh hoạt của dân chúng hoàn toàn bị tê liệt. Tình hình an ninh tại Thừa Thiên- Huế suy sụp trầm trọng. Lực lượng quân sự Việt Cộng bắt đầu mở những trận đánh thăm dò ngay vòng đai an ninh gần của thành phố.
Tháng 2-1965 Công Trường 5 Đặc Công của Đại tá Việt Cộng Thân Trọng Một, tung 2 tiểu đoàn đặc công K 1, K 2 tấn công quận lỵ Nam Hòa phía tây thành phố Huế. Quận lỵ Nam Hòa cách thành phố chưa đầy 10Km. Cuộc tấn công của Việt Cộng bị lực lượng quân sự tại Chi Khu Nam Hòa phản công và đẩy lui. Trong khi đó Chỉ huy hai cơ quan chịu trách nhiệm an ninh tại thành Phố Huế là Ty Công An Thừa Thiên và ty Cảnh Sát Quốc Gia Thị Xã Huế là hai nhân vật được Trí Quang và Đôn Hậu đề cử.
Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thị Xã Huế là Nguyễn văn Cán thường được gọi là Quận Cán vì đương sự có bằng Cử Nhân Luật ngạch Quận Trưởng(Commissioner), đương sự có anh ruột là cán bộ Cộng Sản quân hàm Đại Tá. Quận Cán là Cơ sở của Cục Tình Báo Chiến Lược Việt Cộng, cán bộ điều khiển của y là Hoàng Kim Loan. Trưởng Ty Công An tỉnh Thừa Thiên là Lê Văn Phú. Phú là em rể của Nguyễn văn Cư, đệ tử thân tín của Thích Đôn Hậu. (Sẽ đề cập đến Quận Cán tên điệp viên Côïng Sản này ở phần sau). Thời gian này hai ty Cảnh sát chưa sáp nhập, một bên là ty Công An Thừa Thiên, một bên là ty Cảnh Sát thị Xã Huế.
Đến tháng 6-1966, khi Tướng Nguyễn Ngọc Loan làm Tư Lệnh Cảnh Sát, ông cho sát nhập 2 thành một, gọi là Bộ chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế, để tiện điều hành và thống nhất chỉ huy. Về Quân Sự, hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế gọi là Khu 11 Chiến thuật, dưới quyền của Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn I.
Ông đúng nghĩa là một ông Tướng của chiến trận không phải là một nhà chính trị, vì thế dễ dàng bị Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu xỏ mũi kéo đi. Chung quanh ông Tướng toàn là người của Trí Quang và Đôn Hậu cài vào. Nhất cử nhất động của ông Tướng đều được các cơ sở của hai tên nầy báo cáo đầy đủ lên Trung Tâm Quyền Lực Từ Đàm. Ông Tướng nghĩ rằng lợi dụng được Thích Trí Quang và Đôn Hậu thì có thể dùng lực lượng đông đảo Phật Giáo Đồ tại Huế và miền Trung, để áp lực với Chính Phủ Trung Ương cho quyền lợi và mưu đồ riêng của ông. Thế nhưng ông Tướng đã lầm, lầm to, lầm lớn. Ông chưa đủ mưu mô thủ đoạn khôn ngoan để lợi dụng Thích Trí Quang, Đôn Hậu và đằng sau là Hoàng Kim Loan, là Cục TBCL Cộng Sản. Ngược lại, bọn chúng cho ông vào tròng, lợi dụng ông và dùng Sư Đoàn I BB của Ông làm lực lượng nòng cốt trong cuộc khởi loạn miền Trung năm 1966, để rồi phải gánh chịu hậu quả là ông bị rời khỏi quân đội, rời khỏi quê hương, lưu đày ở xứ Cờ Hoa từ 1966 cho đến nay.
Nhắc đến Trung tướng Nguyễn chánh Thi, ai cũng biết ông là chuyên viên, là vua đảo chánh. Ngày 11-11-1960 ông đảo chánh Tổng Thống Diệm, thất bại ông chạy sang Cao Miên. Ngày 1-11-1963 Tướng lãnh đảo chánh thành công ông từ Cao Miên về làm Tư Lệnh Sư Đoàn I BB, rồi Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân Khu I với cấp bậc Trung Tướng. Mỗi khi bất bình chính phủ Trung Ương ông lên máy bay vào Sài Gòn đảo chánh, vì thế ông Tướng mới có biệt danh là Vua đảo chánh.
Vụ khởi loạn tại miền Trung - Huế của Thích Trí Quang và Đôn Hậu quá dài giòng và mọi người đều biết, tôi chỉ nói những điểm chính mà thôi. Đầu tháng 6-1965, tình hình Chính trị tại Saigòn tạm ổn định. Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia ra đời do Quân đội nhận lãnh trách nhiệm. Chủ Tịch là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Sau đó ngày 19-6-1965, Nội Các Chiến tranh của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ thành lập. Thiếu Tướng KQ Nguyễn cao Kỳ làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (Thủ tướng). Nhìn vào thành phần Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Nội các Chiến tranh, hầu như không có người của Thích Trí Quang. Phản ứng đầu tiên của Trí Quang là gặp Đại Sứ Mỹ Tại Sàigòn tỏ ý muốn tổ chức đảo chánh lật Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Đại Sứ Mỹ hỏi Trí Quang: Nếu đảo chánh lật Thiếu Tướng Kỳ thì Thượng Tọa đưa ai thay thế, Trí Quang không trả lời được câu hỏi của Đại Sứ Mỹ, lẳng lặng ra về.
Thích Trí Quang từ Sàigon ra Huế, phát động cuộc dấy loạn miền Trung. Bộ Chỉ Huy đầu não cuộc tranh đấu Miền Trung của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do Thích Trí Quang lãnh đạo đặt tại Chùa Từ Đàm. Mục đích của Trí Quang khi phát động cuộc tranh đấu Phật Giáo Miền Trung là lật đổ Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Chính Phủ Trung Ương do Quân Đội nắm giữ, qua đại diện là Trung Tướng Nguyễn văn Thiệu một tín đồ Thiên Chúa Giáo, và Thiếu Tướng Nguyễn cao Kỳ, hầụ để nắm lại quyền chủ động kiểm soát và sắp đặt nhân sự từ Chính phủ Trung ương đến địa phương, mà y đã dần dần mất đi sau ngày 1-11-1963 và sau các cuộc chỉnh lý, đảo chánh của Tướng lãnh tại Sàigon. Hình ảnh một Trí Quang trong cuộc Cách Mạng 1963 đối với các Tướng Lãnh trẻ và quần chúng miền Nam đã mờ nhạt và như vậy Ngôi Quốc Phụ của y khó đứng vững.
Yêu sách đầu tiên của Trí Quang là yêu cầu Chính Phủ soạn thảo Hiến Pháp mới, tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Pháp và đả đảo Thiệu Kỳ, đả đảo chế độ Quân Phiệt, đả đảo dư Đảng Cần Lao. Từ cuối tháng 2-1966, Miền Trung và Thừa Thiên-Huế bắt đầu dậy sóng. Theo lệnh của Trí Quang và Thích Đôn Hậu, quần chúng Phật Giáo đồ Ấn Quang Miền Vạn Hạnh chuẩn bị xuống đường ào ạt. Đầu tháng 3-1966, cuộc dấy loạn bắt đầu. Các Khuôn Hội Phật Giáo từ Xã, Quận, Tỉnh, Học Sinh, Sinh Viên Đại Học Huế bãi Khóa. Tiểu thương Chợ Đông Ba và Thành Phố Huế đình công bãi thị, chợ không đông, phố xá đóng cửa. Mọi sinh hoạt thường nhật của dân chúng hoàn toàn bị tê liệt. Hàng loạt các cuộc biểu tình diễn ra trên đường phố, từ đường Lê Lợi, qua cầu Tràng Tiền, khu phố Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu. Khẩu hiệu đả đảo Thiệu, Kỳ, đả đảo Quân Phiệt, đả đảo dư đảng Cần Lao được nghe suốt ngày đêm.
Màn thứ 2, kế tiếp Thích Trí Quang cho tổ chức các lực lượng xung kích: Đoàn Học Sinh, Sinh Viên Quyết Tử, lẽ dĩ nhiên trong đó gồm cơ sở Học Sinh, Sinh Viên Cơ Sở Nội Thành Việt Cộng. Tất Cả Đoàn viên quyết tử đều mang băng đỏ, Cảnh sát Phật tử, Công Chức Phật Tử, Quân Nhân Phật Tử, Tiểu thương Phật Tử. Vẫn tiếp tục lên đường xuống đường hằng ngày, loa phóng thanh đặt mọi ngã đường trong thành phố rộn rã kêu gọi dân chúng xuống đường, đình công bãi thị, chống Thiệu Kỳ.
Màn thứ 3, kế tiếp: Bạo Động. Cướp Chính Quyền. Màn này có sự đạo điễn của Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng Sản Hà Nội. Cán bộ Cục TBCL Cộng Sản Hoàng Kim Loan nhảy vào cuộc. Một nửa quân số của Sư Đoàn I BB, các đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân các quận, buông súng trở về thành phố tham gia cuộc nổi loạn chống Thiệu, Kỳ và chính Phủ Trung Ương. Nhóm Quân Nhân Phật Tử thành lập Chiến Đoàn Nguyễn Đại Thức.
Công Chức các ngành, Giáo chức mọi cấp nghỉ việc, nghỉ dạy, tham gia tranh đấu chống chính ph ủ. Thích Trí Quang cho lệnh chiếm Đài phát thanh Huế. Đài Phát Thanh Huế của Chính Phủ trở thành Đài Phát Thanh của Lực Lượng tranh đấu Phật Giáo miền Trung. Hằng giờ phát đi lời kêu gọi của Trí Quang và của Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Tranh Đấu tại Từ Đàm, xen kẽ chương trình là nhạc tranh đấu và nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn. Dân Huế hằng giờ nghe rền rỉ bên tai bản nhạc: Kẻ thù ta đâu phải là người.. Giết người đi thì ta ở với ai...
Trong khi đó thì một phần của lực lượng Học Sinh, Sinh Viên quyết tử chiếm Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Thành Phố Huế.
Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên người của Thích Đôn Hậu, Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thị Xã Huế Nguyễn văn Cán là Cán Bộ Cộng Sản nằm vùng cơ sở của CụcTBCL Hoàng Kim Loan. Bọn Học Sinh, Sinh Viên Quyết Tử này phá kho súng của 2 Ty Cảnh Sát, trang bị cho hàng ngàn đoàn viên Quyết Tử. Khoảng gần 4000 ngàn súng, gồm tiểu liên, Shotgun, và súng lục, 120 thùng lựu đạn M 26. Khoảng 100 xe Jeep Cảnh Sát và toàn bộ máy móc truyền tin bị bọn chúng lấy đi. Bọn chúng dùng xe, máy móc truyền tin, và súng của Cảnh Sát tuần tiểu và canh gác trong thành phố.
Thích Trí Quang và Hoàng Kim Loan đi xa hơn nữa là cho lệnh Đoàn HS,SV Quyết Tử bao vây Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ, tại Đường Lý Thường Kiệt, Quận 3 thành phố Huế, và nhào vô đốt phá tan tành phòng Thông Tin Hoa Kỳ tại Huế.
Bây giờ thì Miền Trung và Thừa Thiên-Huế hoàn toàn vô Chính Phủ, không còn có luật pháp quốc gia. Mọi quyền hạn nằm trong tay Quốc Phụ Thích Trí Quang và đám tranh đấu áp dụng luật Rừng trong thành phố. Bọn chúng chia ra từng tổ, từng toán gõ cửa mỗi nhà, yêu cầu tham gia phong trào tranh đấu, gia đình nào lơ là hoặc từ chối, bị chúng phao vu là dư đảng Cần Lao, hoặc là người của Thiệu, Kỳ, lập tức bị dọa nạt đốt nhà đốt cửa, hoặc bị hành hung. Một số gia đình đã phải bỏ nhà, trốn vào làng Phú Cam nơi an toàn khu, vì nơi đây là khu Công Giáo, Trí Quang và đám Quyết Tử chưa dám đụng đến. Đời sống dân chúng mỗi ngày một khó khăn, dân chúng hoang mang lo sợ. Quân đội và Công Chức sống nhờ vào đồng lương của Chính Phủ, bây giờ đình công bãi thị, chống chính phủ thì lương hàng tháng có đâu để nuôi vợ, con. Một số ít đơn vị quân sự đang ở vị trí hành quân tác chiến cũng gặp trở ngại không nhỏ. Quân số thiếu hụt trầm trọng, vì một số lớn sĩ quan và binh sĩ bỏ đơn vị về thành phố tham gia tranh đấu. Đạn dược và điện trì truyền tin cho hệ thống hành quân tác chiến bị hạn chế tối đa vì không còn được cung cấp từ Trung Ương.
Tình hình an ninh tại Quảng Trị và Thừa Thiên ở mức báo động đỏ. Các Công trường 4,5,6 của Quân Khu Trị Thiên Việt Cộng lởn vởn ở vòng đai an ninh xa, phía Tây của thành Phố Huế. Trong lòng Cố Đô Huế thì đám cán bộ và cơ sở nội thành của Cộng Sản công khai hoạt động. Bọn chúng nằm trong bộ chỉ huy của lực Tranh Đấu, nắm giữ những vai trò then chốt và quan trọng, tỷ như: Nguyễn Đắc Xuân sinh viên Sư Phạm.
Trần Quang Long sinh viên Sư Phạm Hoàng Phủ Ngọc Phan sinh viên Y khoa Phan Chánh Dinh tức Phan Duy Nhân sinh viên Nguyễn Thiết tức Hoàng Dung sinh viên Luật Khoa Hoàng Phủ Ngọc Tường Giáo Sư Trường Quốc Học. Nguyễn Hữu Châu Phan sinh viên Hoàng Thị Thọ nữ sinh Đồng Khánh. Phạm thị Xuân Quế sinh viên Y Khoa. Tôn Thất Kỳ sinh viên. Bửu Chỉ sinh viên Và nhiều.. nhiều nữa.. (Khi cuộc dấy loạn miền Trung bị dẹp tan, Hoàng Kim Loan đưa đám nầy ra mật khu, và năm Mậu Thân 1968 bọn chúng trở lại Huế bắn giết, tàn sát vô số kể đồng bào vô tội)
Trí Quang và Cộng Sản đã ước tính sai khi tung ra cuộc dấy loạn Miền Trung năm 196 6. Vào năm 1963 Tướng Lãnh và Mỹ dùng Trí Quang và quần chúng Phật giáo để lật đổ Tống Thống Ngô Đình Diệm. Bây giờ là 1966, Trí Quang không còn có giá trị lợi dụng nữa. Đối với các Tướng Lãnh VNCH đang nắm quyền thì Trí Quang là một trở ngại, một chướng ngại vật trên bước đường công danh và sự nghiệp của họ, chướng ngại vật này phải được dẹp bỏ.
Còn đối với người Mỹ và đặc biệt là cơ quan tình báo của họ, phương tiện nào cũng tốt, miễn là đạt được mục đích, quốc gia hay cộng sản cũng vậy thôi. Họ dư biết Trí Quang là Cộng Sản, là đảng viên Cộng sản, và trong hàng ngũ của Trí Quang có quá nhiều cán bộ Cộng Sản nằm vùng. Nhưng vì nhu cầu, họ vẫn tạo hình tượng Thích Trí Quang cho hào quang bóng nhoáng. Sau 1963 hình tượng đó không còn cần thiết nữa mà còn tạo nhiều trở ngại, thì Trí Quang phải được dẹp bỏ.
Năm 1966 Mỹ đang đổ quân ào ạt vào Việt Nam. Chính phủ Mỹ đang cần một hậu phương Miền Nam ổn định chính trị. Trí Quang và Côïng Sản đã quá lầm lẫn, nếu không nói là ngu, khi phát động Phong Trào Tranh Đấu Miền Trung trong thời gian này. Dưới mắt ông Đại Sứ Mỹ tại Sài gòn bấy giờ thì Trí Quang là một kẻ gây rối, một kẻ tham, sân, si, say mê quyền lực và một trở ngại lớn của Tòa Đại Sứ Mỹ cho việc ổn định tình hình chính trị tại Saigòn. Trí Quang phải được dẹp bỏ lập tức, mạnh mẽ, không nương tay, không nhân nhượng.
Người Mỹ giúp mọi phương tiện cần thiết cho Chính Phủ Saigòn mở cuộc hành quân dẹp loạn tại MiềnTrung. Ngày 4-4-1966 bằng phương tiện Không Vận của Hoa Kỳ, lực lượng Quân Lực VNCH đổ quân xuống Đà Nẵng.
Tư lệnh Sư Đoàn I BB là Tướng Nguyễn văn Chuân, Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân Khu I Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi. Tướng Chuân được cử thay thế Trung Tướng Thi, Trung Tướng Thi bay ra Huế. Như đã biết, Trung Tướng Thi là người của Trí Quang. Những ngày kế tiếp Trung Tướng Nguyễn Hữu Có ra Đà Nẵng gặp Tướng Nguyễn văn Chuân, sau đó Tướng Chuân theo Trung Tướng Có vào Sàigòn. Sàigòn cử Trung Tướng Tôn Thất Đính ra Đà Nẵng thay thế Trung Tướng Thi, mọi chuyện không ổn, Trung Tướng Đính phải chạy vào BCH của Thủy Quân Lục Chiến của Mỹ xin tỵ nạn. Chính Phủ lại cử Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao ra thay Trung tướng Đính.
Thiếu tướng Huỳnh văn Cao là tín đồ Công Giáo. Khi từ Đà Nẵng đến Huế cùng với viên đại tá Cố Vấn phó Quân Đoàn là Arch Hamblen, Thiếu tướng Cao đã bị các Lực Lượng Tranh Đấu do đám Sinh Viên Hoc Sinh Quyết Tử cầm đầu biểu tình phản đối. Đoàn biểu tình hàng ngàn người bao vây, Tướng Cao và đoàn cận vệ khó khăn lắm mới chạy thoát vào sân bay Tây Lộc, thành nội. Tại đây một phi cơ trực thăng của quân đội Hoa Kỳ đợi sẵn để đưa ông vào Đà Nẵng. Đoàn biểu tình rượt theo tướng Cao và đại tá Arch Hamblen vào tận sân bay Tây Lộc, Trực thăng chở tướng Cao và đại tá Arch Hamblem vừa rời khỏi mặt đất vài chục mét thì trong đoàn biểu tình, viên sĩ quan của Sư Đoàn I BB, trung úy Nguyễn Đại Thức rút súng lục bắn tướng Cao, may mắn ông không bị trúng đạn, lập tức xạ thủ đại liên của trực thăng, viên hạ sĩ quan người Mỹ, nổ súng đại liên bắn trả, trung úy Nguyễn Đại Thức chết gục tại chỗ. Những ngày sau khi Thích trí Quang thành lập Chiến Đoàn Quân Nhân Phật Tử của Sư Đoàn I BB, cho lấy tên viên sĩ quan nầy đặt tên cho Chiến đoàn, gọi là Chiến Đoàn Quân Nhân Phật Tử Nguyễn Đại Thức.
Cũng giống Trung tướng Tôn Thất Đính, Thiếu tướng Huỳnh văn Cao vào Đà Nẵng, nơi đặt BCH Quân Đoàn I. Thiếu tướng Cao liên lạc với tướng Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ và tỵ nạn tại đó .
Bây giờ thì miền Trung và Thừa Thiên Huế hoàn toàn vô Chính Phủ, mặc sức Thích Trí Quang và đám Cộng Sản Hoàng Kim Loan tung hoành. Dân chúng sống từng giờ trong nơm nớp lo sợ: sợ Thầy, sợ Việt Cộng, sợ các Đoàn Học Sinh, Sinh Viên Quyết Tử của Thầy. Công chức, quân nhân sợ không được lãnh lương, vợ con đói.
Vị Tướng kế tiếp được Chính Phủ cử ra làm Tư Lệnh Quân Đoàn I là Thiếu Tướng Trần Thanh Phong. Thiếu Tướng Phong đến Đà Nẵng đúng vào thời gian cao điểm của phong trào Tranh Đấu Phật Giáo Miền Trung. Ông chuẩn bị cho cuộc đổ quân ra Huế dẹp loạn. Trong khi đó thì tại Huế lực lượng chống lại phong trào tranh đấu được phân loại như sau:
1- Thành phần chống đối tiêu cực:
Khối Công giáo: Đại đa số tín đồ Thiên Chúa Giáo sống tại làng Phú Cam nơi có nhà thờ Chính Tòa Phú Cam, vùng dòng Chúa Cứu Thế, nơi có nhà thờ và dòng tu, dòng Chúa Cứu Thế, vùng Gia Hội có nhà thờ Gia Hội, vùng Kim Long nơi có Dòng Tu kín của các Nữ tu. Họ chống lại Phong trào Tranh Đấu nhưng tiêu cực, các vị lãnh đạo không muốn giáo dân vướng vào vòng xung đột của hai tôn giáo là Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo. Khu an toàn Phú Cam được giáo dân canh gác, đề phòng cẩn mật vì sợ các đoàn Quyết Tử của Phong Trào Tranh Đấu quấy phá. Họ sẵn sàng chống trả chỉ trong trường hợp tự vệ. Đại đa số trầm lặng là giáo chức, thành phần trí thức, những người lớn tuổi, và Hoàng Tộc, họ đều bất bình và chống lại cuộc Tranh Đấu Miền Trung nhưng họ chỉ giữ thái độ im lặng và không hợp tác.